Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách đại đoàn kết dân tộc
TCCSĐT - Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam sẽ được tổ chức vào trung tuần tháng 5 tới, ngày 20-4-2010, Ủy ban Dân tộc, Ban Tổ chức đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam tổ chức Hội thảo "Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách đại đoàn kết dân tộc".
Hội thảo là diễn đàn thảo luận, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các chuyên gia về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng,... về việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, những vấn đề lý luận và thực tiễn, những bài học kinh nghiệm và định hướng công tác dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Qua các tham luận tại Hội thảo có thể khái quát một số vấn đề chính yếu sau:
Thứ nhất, phân tích đặc điểm vùng dân tộc và miền núi nước ta tác động đến việc thực hiện chính sách dân tộc.
Vùng dân tộc và miền núi nước ta chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, bao gồm 21 tỉnh miền núi vùng cao, 23 tỉnh có miền núi và 10 tỉnh đồng bằng có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Các dân tộc cư trú phân tán và đan xen nhau trên mọi vùng, miền với quy mô dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau.
Thứ hai, một số thành tựu quan trọng đạt được trong công tác dân tộc trong thời gian qua
Các doanh nghiệp đã hỗ trợ các địa phương xóa trên 54.000 nhà dột nát) chiếm 70% nhu cầu hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo trên địa bàn 62 huyện nghèo) với tổng số tiền là 419 tỉ đồng, giúp các địa phương phấn đấu hoàn thành việc xóa nhà dột nát cho hộ nghèo xong trong năm 2009; hỗ trợ học bổng cho học sinh, sinh viên với số tiền 167 tỉ đồng; đầu tư cơ sở y tế: 56,2 tỉ đồng...
Từ góc độ xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, có thể thấy, trong nhiều năm qua, Chính phủ, các bộ, ban, ngành, các địa phương đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành các chính sách, các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ dân tộc, tăng cường hệ thống chính trị cơ sở, phát triển nguồn nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số.
Để hoạch định chính sách dân tộc phù hợp với đặc thù của mỗi vùng, miền, của từng đối tượng cụ thể và để chính sách ban hành sớm đi vào cuộc sống, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được phân định theo điều kiện địa lý tự nhiên (miền núi, vùng cao, vùng có miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống); theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội với 5 tiêu chí: đời sống, kết cấu hạ tầng, các yếu tố xã hội; điều kiện sản xuất và điều kiện tự nhiên của địa bàn cư trú. Từ việc phân định này đã hình thành và triển khai thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Việc lựa chọn các địa bàn đặc biệt khó khăn để tập trung đầu tư thể hiện sự đổi mới về nhận thức và phương pháp xây dựng chính sách dân tộc và tổ chức thực hiện công tác dân tộc. Cách làm như vậy đã góp phần rất lớn trong việc hạn chế sự “doãng ra” khoảng cách chênh lệch về đời sống kinh tế - xã hội giữa các vùng miền và các dân tộc.
Cho đến nay đã có gần 40 chương trình cấp quốc gia, trong đó có tới 30-35 chương trình đầu tư trực tiếp cho miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Việc thực hiện chính sách xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được cải thiện, diện mạo nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới có nhiều thay đổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3%-4%/năm; kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông nông thôn, thủy lợi, điện. Trường học, trạm xá được xây dựng khá, đất sản xuất, đát ở, nước sinh hoạt, nhà sinh hoạt cộng đồng được quan tâm giải quyết; số nhà tạm bợ, dột nát giảm nhanh.
Chủ trương “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” đã được đưa vào cuộc sống thông qua các phong trào thiết thực, cụ thể, sinh động được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, mang lại hiệu quả thiết thực. Chẳng hạn, “Quỹ vì người nghèo” đến nay đã vận động được 3.627 tỉ đồng, giúp đỡ xây mới và sửa chữa được trên 963.000 căn nhà Đại đoàn kết cho người nghèo. Kết hợp với các chương trình khác, hàng triệu người nghèo trong vùng đồng bào dân tộc đã có nhà ở mới; hàng vạn đồng bào nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí; hàng chục nghìn học sinh nghèo được đỡ đầu hoặc cấp học bổng để tiếp tục được học tập và phát triển; hàng nghìn người mù được mổ sáng mắt...
Từ khía cạnh bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số cũng có nhiều chuyển biến. Đã tiến hành khảo sát, điều tra xây dựng các dự án và đưa vào kế hoạch hàng năm bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể tiêu biểu, các giá trị văn hóa phi vật thể truyền thống của các dân tộc thiểu số. Nhiều giá trị văn học nghệ thuật dân gian truyền thống các dân tộc thiểu số như dân ca, dân vũ, dân nhạc, văn học dân gian, đặc biệt là kho tàng sử thi và không gian văn haoc cồng chiêng các dân tộc Tây Nguyên; các làn điệu Then của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, kho sách cổ của dân tộc Dao... đã được sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu. Mức độ hưởng thụ văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên; đã xóa được điểm trắng về hoạt động văn hóa - thông tin ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ ba, những khó khăn, tồn tại thể hiện trên một số nét lớn sau:
- Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số rất đa dạng, phong phú nhưng chưa được quan tâm và đầu tư, bảo tồn, phát huy một cách thỏa đáng; việc đầu tư, hỗ trợ còn manh mún, nhỏ giọt, tản mạn; cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động văn hóa còn nghèo nàn, lạc hậu; đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa còn yếu, thiếu ở nhiều khâu...
- Văn hóa các dân tộc tồn tại chủ yếu ở dạng phi vật thể, dễ bị mai một theo thời gian. Những nghệ nhân - người giữ vốn văn hóa truyền thống các dân tộc ngày càng thiếu vắng, nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp đang đứng trước nguy cơ thất truyền...Bên cạnh đó, do tác động của các yếu tố bên ngoài, nhiều nơi đồng bào tiếp thu thiếu chọn lọc các yếu tố văn hóa của các dân tộc khác, không còn bảo tồn được những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình...
Từ thực trạng trên, một số nhóm giải pháp lớn đã được nêu tại Hội thảo:
- Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, nâng cao chất lượng sống, năng lực sản xuất của người dân ở miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số bằng cách tiền hành các biện pháp, giải pháp một cách đồng bộ và cụ thể mà mục tiêu quan trọng nhất nhằm vào con người, ưu tiên thực hiện chính sách phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, phát triển kết cấu hạ tầng, giáo dục, đào tạo nghề cho người dân, bố trí sắp xếp cư dân trên địa bàn.../.
Đại thắng mùa Xuân 1975 - đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam  (21/04/2010)
Xã hội hóa hoạt động văn hóa - Những thành tựu và giải pháp  (21/04/2010)
Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Hội Nhà báo Việt Nam  (20/04/2010)
Chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay  (20/04/2010)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam