Sự điều chỉnh chiến lược của Liên minh châu Âu trong bối cảnh cuộc xung đột Nga - Ukraine

TS Lộc Thị Thủy
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
10:14, ngày 25-04-2024

TCCS - Trong bối cảnh cuộc xung đột Nga - Ukraine diễn biến phức tạp, Liên minh châu Âu (EU) đã có sự điều chỉnh chiến lược thông qua việc gắn kết chặt chẽ với Mỹ trong khuôn khổ liên minh EU - Mỹ nhằm đối phó với các thách thức an ninh mang tính hệ thống.

Từ sau khi cuộc xung đột Nga - Ukraine xảy ra vào cuối tháng 2-2022, EU với tư cách là một nhà nước liên bang và là một thể chế chính trị lớn nhất châu Âu đã có sự điều chỉnh chiến lược từ “giữ cân bằng” trong quan hệ với Nga và Trung Quốc, “độc lập tương đối” với Mỹ, “đa dạng hóa quan hệ” với các nước mới nổi và đang phát triển,  chuyển sang củng cố “liên minh bền chặt” với Mỹ và lôi kéo các nước đang phát triển tham gia liên minh do phương Tây dẫn dắt để đối phó với các thách thức toàn cầu, nhất là với Nga và Trung Quốc - hai đối thủ địa - chiến lược mang tính hệ thống mà EU và Mỹ đã xác định. Tuy nhiên, sự điều chỉnh chiến lược lần này của EU theo hướng linh hoạt, mềm dẻo và cân bằng hơn, để bảo đảm cho EU không phụ thuộc quá sâu vào Mỹ và vẫn giữ được sự tự chủ chiến lược trong các vấn đề quốc tế và khu vực, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và thương mại.

Các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU) tại cuộc họp thượng đỉnh EU ở Brussels, Bỉ, ngày 22-3-2024. Ảnh: AFP/TTXVN

Chính sách của Liên minh châu Âu trước cuộc xung đột Nga - Ukraine

Về chính trị - ngoại giao

Trước khi cuộc xung đột Nga - Ukraine xảy ra, EU vẫn duy trì đường lối đối ngoại độc lập tương đối với Mỹ trong nhiều vấn đề liên quan đến chính trị nội khối và quan hệ quốc tế. Theo đó, tại Hội nghị thượng đỉnh EU (năm 2017), EU đã đề ra phương châm “tự chủ chiến lược” nhằm xây dựng sự độc lập hơn về chính trị, tăng cường vai trò lãnh đạo của Pháp và Đức, củng cố luật pháp của các nước EU phía Đông theo hướng tự do, dân chủ hơn. Đồng thời, tiếp tục duy trì mối quan hệ chính trị bền chặt với Mỹ cùng các nước đồng minh phương Tây, như Canada, Australia, Nhật Bản để giải quyết các thách thức chính trị nội khối mà EU đang gặp phải, như bất ổn chính trị ở Tây Balkan, Đông Ukraine, căng thẳng sắc tộc ở Kosovo, đối phó với chủ nghĩa ly khai ở Tây Ban Nha, Bỉ… Bên cạnh đó, EU còn thúc đẩy hợp tác chính trị với Trung Quốc để giải quyết các thách thức trong vấn đề dân chủ, nhân quyền và duy trì đối thoại chính trị với Nga trong vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Chechnya, Bắc Kavkaz, tiếp tục thúc đẩy các cuộc đàm phán với Nga trong cơ chế Thỏa thuận Minks(1), thể thức Normandy(2).

Về kinh tế, là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới và là mắt xích quan trọng trong trục tam giác Mỹ - châu Âu - Nhật Bản, EU tiếp tục phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường tự do, ủng hộ vai trò của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế, nhất là khi đại dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp. Trong giai đoạn 2020 - 2021, EU đã thông qua bốn gói hỗ trợ kinh tế trị giá 2.000 tỷ USD để giúp các nền kinh tế trong khối thoát khỏi khó khăn từ những tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu. Điều này đã giúp nền kinh tế EU đạt tỷ lệ tăng trưởng 5,2% (năm 2021) và 1,8% (năm 2022).

Ngoài ra, EU còn phối hợp với Mỹ trong việc đề ra các sáng kiến kinh tế quan trọng mang tính khu vực, liên khu vực và toàn cầu, như Chiến lược kết nối Á - Âu, Sáng kiến Ba biển (BABS, gồm biển Baltic, biển Đen và biển Adriatic), Sáng kiến Xây dựng lại thế giới tốt đẹp hơn (B3W), Sáng kiến Đối tác về kết cấu hạ tầng và đầu tư toàn cầu (PGII) để phục hồi nền kinh tế. Các cơ chế này đã tạo nền tảng giúp EU đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ dựa vào các ngành công nghiệp truyền thống, như năng lượng, kết cấu hạ tầng, công nghiệp chế tạo sang phát triển các ngành kinh tế xanh, sạch phù hợp với xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và mục tiêu của Hội nghị Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP-26) về năng lượng sạch, viễn thông, kinh tế số, đường sắt chất lượng cao…, góp phần đưa tổng sản phẩm nội địa (GDP) của khối từ 16.300 tỷ USD (năm 2021) lên 16.700 tỷ USD (năm 2022).

Về quốc phòng - an ninh, trong giai đoạn 2017 - 2019, dưới sự lãnh đạo của Pháp và Đức, EU đẩy mạnh kế hoạch tự chủ chiến lược về quốc phòng để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng lực lượng phản ứng nhanh của châu Âu gồm 5.000 quân. Lực lượng này hoạt động thường trú tại sườn phía Đông của EU thuộc lãnh thổ Ba Lan, Rumani, Slovakia, ba nước Baltic. Đồng thời, tăng cường các mối liên kết về an ninh với Mỹ để củng cố khu vực Đông Bắc của EU thuộc lãnh thổ của Thụy Điển, Phần Lan. EU đẩy mạnh hợp tác với Hy Lạp, các nước Đông Nam Âu, như Croatia, Slovenia… nhằm giải quyết những bất ổn về chính trị tại Kosovo và Bắc Macedonia để đưa các nước này trở thành thành viên chính thức của EU (vào năm 2025) và đối phó với các thách thức an ninh từ Thổ Nhĩ Kỳ, người nhập cư ở Trung Đông, Bắc Phi ở phía Đông Địa Trung Hải.

Sau khi chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump thực hiện chính sách tăng cường liên kết với EU và các nước thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ở châu Âu nhằm kiềm chế Trung Quốc, EU đã có sự điều chỉnh chiến lược theo hướng thúc đẩy tăng chi tiêu quốc phòng lên 2% theo tiêu chuẩn mà NATO đặt ra và đẩy nhanh các cuộc đàm phán về chia sẻ chi phí quốc phòng cho các lực lượng Mỹ đồn trú ở châu Âu. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán này đã bị tạm dừng vào năm 2021 do chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden kích hoạt lại Điều 5 Hiến chương NATO khi coi EU là đồng minh chiến lược trong việc kiềm chế Nga.

Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách của EU trong thời gian này vẫn tồn tại một số hạn chế, đó là mâu thuẫn giữa các nước EU ở Tây Âu và Đông Âu trong chính sách “tự chủ chiến lược” về an ninh. Bên cạnh đó là những khó khăn  do sự phụ thuộc về kinh tế của EU vào Trung Quốc vẫn rất sâu sắc; EU phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt giữa Mỹ với Trung Quốc tại châu Âu; các áp lực quân sự của Nga ở Đông Ukraine và sườn Đông của EU ngày càng lớn; việc Anh rời khỏi EU (Brexit) khiến vị thế kinh tế của EU bị suy yếu.

Sự điều chỉnh chiến lược của EU sau cuộc xung đột Nga - Ukraine

Việc Nga tiến hành “chiến dịch quân sự đặc biệt” tại Ukraine đã làm thay đổi sâu sắc và toàn diện bức tranh địa - chiến lược của EU; các nước trong khu vực phải đối mặt với những thách thức lớn chưa từng có kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là lý do buộc EU phải có sự điều chỉnh chiến lược để giúp khối có thể thích ứng linh hoạt, kịp thời trước sự thay đổi nhanh chóng của tình hình khu vực và thế giới. Cụ thể là:

Về mục tiêu

EU đã điều chỉnh chính sách từ “tương đối độc lập” với Mỹ sang “phụ thuộc sâu” vào Mỹ trong các vấn đề chiến lược, quốc phòng - an ninh để đối phó với các thách thức an ninh trực tiếp từ Nga. Đồng thời, từng bước phục hồi và phát triển nền kinh tế sau giai đoạn rơi vào suy thoái và khủng hoảng. Ngoài ra, EU còn muốn giảm sự phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn năng lượng nhập khẩu từ Nga và chuyển sang sử dụng các nguồn năng lượng từ Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông(3); thúc đẩy phát triển năng lượng xanh, sạch, năng lượng tái tạo, thích ứng với biến đổi khí hậu để đưa khối này trở thành cường quốc về môi trường của thế giới vào năm 2050, giúp EU hiện thực hóa mục tiêu trở thành siêu cường về công nghệ đúng nghĩa trên cơ sở phối hợp với liên minh công nghệ toàn cầu, nhằm nâng thị phần về công nghệ của EU từ 12% (năm 2023) lên 30% (năm 2030)(4); giúp EU củng cố mối quan hệ quốc phòng - an ninh bền chặt với Mỹ trong khuôn khổ NATO, từ đó thúc đẩy Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP) của EU từ châu Âu - Đại Tây Dương sang châu Á - Thái Bình Dương, tiến tới mục tiêu xây dựng NATO phương Đông ở châu Á - Thái Bình Dương để cạnh tranh chiến lược với Nga và Trung Quốc. Điều này được thể hiện qua phát biểu của Chủ tịch Ủy ban châu Âu Von Der Leyen rằng, quá trình điều chỉnh chiến lược của EU không chỉ giúp khối này tái củng cố mối quan hệ chiến lược lâu đời với Mỹ, mà còn giúp EU hiện thực hóa mục tiêu trở thành một cường quốc có trách nhiệm trên bản đồ chính trị thế giới trong thế kỷ XXI(5).

Về triển khai

Các biện pháp mà EU sử dụng để điều chỉnh chiến lược, chính sách sau cuộc xung đột Nga - Ukraine vẫn là các giải pháp truyền thống, gồm song phương và đa phương.

Về song phương, EU tiếp tục duy trì chiến lược can dự ngoại giao song phương với các quốc gia, tổ chức trên thế giới thông qua chuyến thăm của các nhà lãnh đạo hàng đầu EU, như Chủ tịch Ủy ban châu Âu, Chủ tịch Hội đồng châu Âu, Cao ủy phụ trách về an ninh và đối ngoại, Thống đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu nhằm mở rộng, quảng bá đường lối, chính sách của khối ra bên ngoài, giúp các nước trên thế giới, nhất là Mỹ, Nga, Trung Quốc, các nước mới nổi và đang phát triển hiểu rõ về lập trường của châu Âu.

Về đa phương, EU tiếp tục thông qua các thể chế, cơ chế mà khối là thành viên, như NATO, Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM), FOIP… để củng cố và mở rộng ảnh hưởng, nhất là khi môi trường quốc tế đang có sự phân tách giữa một bên là Nga, Trung Quốc và các nước đang phát triển với phần còn lại là các quốc gia phương Tây và thân phương Tây. EU còn sử dụng vai trò của các thể chế tài chính mà khối này chi phối, như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), Khối Khu vực tự do, an ninh và công lý (Schengen) để đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế, giảm bớt sự phụ thuộc tài chính vào Mỹ, thặng dư thương mại với Trung Quốc, thúc đẩy triển khai mô hình kinh tế xanh, sạch mà EU có thế mạnh, như dược phẩm, vaccine, chip công nghệ cao, điện tử.

Bên cạnh đó, EU còn tận dụng “sức mạnh mềm”, như các học thuyết, chính sách, sáng kiến kinh tế, văn hóa… nhằm điều chỉnh chính sách, chiến lược cho phù hợp với lợi ích của khối, không để phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ và bị động trước chính sách của Trung Quốc, Nga trong các vấn đề an ninh, văn hóa, tư tưởng. Tại Hội nghị thượng đỉnh EU (năm 2022), EU đã đưa ra sáng kiến Đối thoại giữa các nền dân chủ trên thế giới để thúc đẩy gia tăng sự hiểu biết, nhận thức giữa phương Đông với phương Tây, giữa EU với phần còn lại của thế giới trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền.

Như vậy, có thể thấy, mục tiêu và biện pháp mà EU đề ra trong quá trình điều chỉnh chiến lược sau khi cuộc xung đột Nga - Ukraine xảy ra, được cho là đã thể hiện tầm nhìn, tham vọng của khối về việc xây dựng một trật tự quốc tế đa cực, trong đó, vai trò của Mỹ, EU và các nước phương Tây tiếp tục được đề cao. Tại Hội nghị thượng đỉnh EU (năm 2022), Cao ủy phụ trách chính sách đối ngoại và an ninh của EU, Josep Borrell phát biểu rằng: “Sự điều chỉnh chiến lược của EU sau cuộc xung đột Nga - Ukraine là sự thức tỉnh của khối trước các vấn đề an ninh khu vực mà EU đang phải đối mặt, nhất là các thách thức từ Nga, Trung Quốc”(6).

Quá trình triển khai chính sách

Về chính trị - ngoại giao, EU phối hợp với Mỹ để đối phó với Nga. Ngày 27-2-2022, lãnh đạo cấp cao EU tiến hành đối thoại trực tiếp với Tổng thống Nga Vladimir Putin nhằm tìm kiếm giải pháp cho cuộc xung đột Nga - Ukraine. Lập trường này tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh bất thường EU  - Mỹ (tháng 3-2022); kết quả là EU cùng các nước đã ban hành hai lệnh trừng phạt đối với Nga tại Đại hội đồng Liên hợp quốc, loại Nga ra khỏi Hội đồng nhân quyền và ban hành lệnh trừng phạt đối với hơn 30 quan chức Nga có liên quan đến cuộc xung đột.

Từ tháng 4-2022 đến tháng 4-2023, EU phối hợp với Mỹ thông qua 4 gói trừng phạt ngoại giao chống Nga, 1.200 quan chức Nga và đình chỉ 12 lãnh sự quán của các nước trong khối EU tại Nga(7). Có thể thấy, EU đã chuyển hướng lập trường chính sách từ giữ cân bằng trong quan hệ với Nga sang phối hợp với Mỹ để kiềm chế Nga. Bên cạnh đó, EU phối hợp với Mỹ tiến hành các hoạt động kiềm chế Trung Quốc, như thông qua Đạo luật nhân quyền về Tân Cương (năm 2022). EU phản đối các chuyến thăm của Thủ tướng Đức, Tổng thống Pháp sang Trung Quốc với lý do những chuyến thăm này sẽ ảnh hưởng đến quan hệ EU - Mỹ.

Về kinh tế, cuộc xung đột Nga - Ukraine khiến EU trở lên gắn kết hơn trong chính sách kinh tế với Mỹ, nhất là trong việc kiềm chế Nga và Trung Quốc. Từ tháng 3-2022 đến tháng 4-2024, EU cùng Mỹ ban hành 13 gói trừng phạt với hơn 20.000 lệnh trừng phạt chống Nga, khiến nền kinh tế Nga bị sụt giảm 2,5% GDP và mất khoảng 300 tỷ USD dự trữ ngoại tệ(8). EU còn đẩy mạnh quá trình chia tách kinh tế với Nga khi rút hầu hết các tập đoàn, doanh nghiệp lớn ra khỏi Nga (năm 2022) và cắt giảm nhập khẩu năng lượng của Nga từ mức 50% (năm 2021) dự kiến xuống 0% (năm 2027)(9). Bên cạnh đó, EU còn ủng hộ các nước Đông Âu đình chỉ hoạt động của Nhóm 16+1 với Trung Quốc, tiến hành các lệnh trừng phạt kinh tế với các doanh nghiệp của Trung Quốc có liên quan tới vấn đề dân chủ, nhân quyền, an ninh công nghệ. Tháng 2-2023, EU cấm nền tảng mạng xã hội Tiktok của Trung Quốc truyền tải thông tin, kết nối với chính phủ, doanh nghiệp của EU với lý do đe dọa đến an ninh quốc gia của các nước trong khối.

Về quốc phòng - an ninh, EU điều chỉnh chính sách quốc phòng từ tách rời Mỹ sang gắn kết với Mỹ để đối phó với Nga và Trung Quốc. Từ tháng 1-2022 đến tháng 4-2024, EU viện trợ cho Ukraine bảy gói hỗ trợ quân sự với tổng ngân sách lên tới 100 tỷ euro và cam kết sẽ viện trợ thêm cho Ukraine 45 tỷ USD trong năm 2024. Theo Báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ, tháng 4-2024, EU và Mỹ đã viện trợ cho Ukraine gần 300 tỷ USD, giúp quân đội Ukraine trụ vững trước các cuộc tấn công của Nga trong thời gian qua. Ngoài ra, EU còn phối hợp với Mỹ thực hiện chính sách quốc phòng cứng rắn khi dự kiến gia tăng tỷ lệ chi tiêu quốc phòng lên 2% - 3% (năm 2025), tương đương 230 tỷ USD/năm để đối phó với các thách thức an ninh từ Nga, Trung Quốc, nhất là khi EU phối hợp với Mỹ triển khai FOIP và lôi kéo Nhật Bản, Hàn Quốc tham gia “NATO phương Đông”.

Tuy nhiên, quá trình triển khai chính sách mới cũng khiến EU gặp một số khó khăn, một là, mâu thuẫn giữa các nước Đông Âu với Tây Âu trong việc thực thi chính sách quân sự cứng rắn với Nga ở Ukraine; hai là, việc phân bổ ngân sách chung giữa các nước thành viên, nhất là các nước thành viên ở Đông và Nam Âu, như Bungary, Rumani, Manta với các nước phía Tây, như Đức, Pháp, Hà Lan; ba là, mâu thuẫn giữa các nước EU với Anh trong việc thực hiện quy chế thương mại tự do ở Ireland, Bắc Ireland và Scotland. Bởi Ireland là cửa ngõ thương mại giữa Anh với EU, còn Bắc Ireland và Scotland vẫn được hưởng quy chế thương mại tự do như các nước thành viên EU; bốn là, mâu thuẫn trong việc thực hiện tương trợ tư pháp giữa Đức, Pháp với Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungary. Bởi trong khi Pháp và Đức yêu cầu những nước này thực hiện các tiêu chuẩn luật pháp, nhân quyền giống EU, thì Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungary lại không muốn thực hiện khi cho rằng mình là những nước độc lập về tư pháp; năm là, bất đồng giữa Đức với các nước thành viên EU trong vấn đề nâng tỷ lệ chi tiêu quốc phòng lên 2%. Năm 2022, EU đã tăng chi tiêu quốc phòng từ 193 tỷ euro lên 213 tỷ euro và có 20/27 nước cam kết tăng chi tiêu quốc phòng lên 2 - 4% (năm 2024). Tuy nhiên, Đức vẫn duy trì ở mức 1,3% (năm 2022) và dự kiến nâng lên 2% (năm 2030); sáu là, bất đồng trong việc bố trí lực lượng phản ứng nhanh của EU và NATO ở các quốc gia phía Đông; bảy là, việc phát triển các lực lượng răn đe hạt nhân. Trong khi Pháp thúc đẩy chính sách tự chủ hạt nhân thông qua việc gia tăng số lượng đầu đạn từ 250 đầu đạn (năm 2022) lên 400 đầu đạn (năm 2026) thì các nước còn lại (nhất là Đức) lại muốn dựa vào “chiếc ô hạt nhân” của Anh và Mỹ; tám là, mâu thuẫn trong chính sách năng lượng giữa Đức với các nước còn lại. Bởi các nước EU cho rằng việc khối này rơi vào tình trạng thiếu năng lượng là do Đức thi hành chính sách dựa vào năng lượng của Nga, còn Đức thì cho rằng chính sách của mình là để cân bằng an ninh giữa châu Âu với Nga, không để EU phụ thuộc sâu vào Mỹ về năng lượng và phụ thuộc vào Trung Quốc về thương mại.

Những vấn đề trên đã khiến chính sách của EU rơi vào tình trạng mất cân bằng, nhất là khi trục Pháp - Đức không còn là đầu tàu để thúc đẩy sự phát triển bền vững của EU như trong thập niên 90 của thế kỷ XX.

Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong cuộc gặp Chủ tịch Hội đồng châu Âu Charles Michel và Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen tại Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 7-12-2023_Ảnh: THX/TTXVN

Phản ứng của Nga và Trung Quốc với chính sách của EU

Đối với Nga

Trước khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra, Nga vẫn duy trì lập trường “kép” trong quan hệ với EU, đó là vừa hợp tác về kinh tế, năng lượng, vừa cạnh tranh trong các vấn đề an ninh, chính trị liên quan đến Ukraine và dân chủ nhân quyền. Giai đoạn 2014 - 2022, Nga kiên trì đối thoại với EU trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền trong các vấn đề liên quan đến bán đảo Crimea và tương lai của vùng Donbass, Lugansk - nơi mà các lực lượng ly khai gốc Nga đang chiến đấu với  lực lượng quân đội Ukraine do Mỹ, EU hậu thuẫn; Nga còn hợp tác với EU trong các cơ chế hợp tác song phương mà hai bên đã thiết lập từ năm 1993, như Hội đồng Nga - EU, Hội đồng Nga - EU - NATO và việc tái ký kết Hiệp ước New START với Mỹ nhằm bảo đảm ổn định vấn đề hạt nhân ở châu Âu dựa theo Bản ghi nhớ Budapet (năm 1994).

Tuy nhiên, sau khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra, Nga đã có sự thay đổi hoàn toàn trong chính sách với EU về các vấn đề liên quan đến Ukraine, như đưa ra lệnh trừng phạt kinh tế, năng lượng với 27 quốc gia thành viên của EU; giảm nguồn cung xuất khẩu năng lượng sang EU; từ bỏ các cơ chế hợp tác; đình chỉ cơ chế New START; răn đe hạt nhân với EU.

Đối với Trung Quốc

Trước khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra, cách tiếp cận của Trung Quốc với EU thể hiện: Một mặt, Trung Quốc ủng hộ các cuộc đàm phán trực tiếp của EU, Pháp, Đức với Nga để giải quyết hòa bình cuộc xung đột tại Ukraine dựa trên Thỏa thuận Minsk, Thể thức Normande. Bởi các cơ chế này giúp Trung Quốc bảo vệ mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga và củng cố lợi ích kinh tế, an ninh, công nghệ của mình tại Ukraine và các quốc gia phía Đông EU. Mặt khác, Trung Quốc cũng phản ứng mạnh mẽ việc EU lợi dụng vấn đề Ukraine để can thiệp vào vấn đề dân chủ, nhân quyền của Trung Quốc và ủng hộ Đài Loan (Trung Quốc) độc lập; lên án EU trừng phạt các doanh nghiệp công nghệ Trung Quốc, như Huawei, ZTE.

Sau khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra, Trung Quốc cũng điều chỉnh chính sách với EU theo hướng cạnh tranh nhiều hơn hợp tác. Kể từ khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra, Trung Quốc đã cử các nhà ngoại giao hàng đầu của nước này đối thoại với EU về vấn đề Ukraine và dân chủ, nhân quyền thông qua Tuyên bố 12 điểm về Ukraine; mời các quan chức cấp cao của EU đến thăm Trung Quốc để cải thiện quan hệ song phương. Bên cạnh đó, Trung Quốc vẫn kiên quyết đấu tranh chống lại EU trong các vấn đề mà nước này coi là “lằn ranh đỏ”, như lên án EU ban hành các lệnh trừng phạt chống Trung Quốc liên quan đến dân chủ, nhân quyền và vấn đề Ukraine; từ chối ban hành các lệnh trừng phạt chống Nga tại Liên hợp quốc; tích cực phối hợp với Nga về an ninh, quốc phòng, nhất là chế tạo máy bay không người lái, tên lửa, hàng không dân dụng…

Như vậy, có thể thấy rằng, trước và sau khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra, cả Nga và Trung Quốc đều có phản ứng chính sách với EU theo cách tiếp cận phù hợp với lợi ích và toan tính chiến lược của hai nước này. Trong khi Nga có những phản ứng cứng rắn, thậm chí là đối đầu quân sự gián tiếp với EU tại Ukraine, thì Trung Quốc vẫn duy trì chính sách hai mặt trong vấn đề này.

Dự báo chính sách của EU trong thời gian tới

Trong thời gian tới, quá trình điều chỉnh chính sách của EU dự báo sẽ tiếp tục diễn ra với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Mỹ cùng các nước đồng minh. Bởi EU đang có nhiều lợi thế mà các nước phương Tây cần: Thứ nhất, EU là đồng minh từ lịch sử đến hiện tại của Mỹ và phương Tây; thứ hai, mối quan hệ lịch sử, văn hóa, tư tưởng gắn bó chặt chẽ với Mỹ là nền tảng và động lực cho chủ nghĩa tự do phương Tây và Âu - Mỹ phát triển; thứ ba, EU có sự liên kết chặt chẽ về an ninh, quốc phòng với Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và Mỹ là chiếc ô hạt nhân bảo vệ EU từ năm 1949; thứ tư, EU còn là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới và là thành viên, đối tác quan trọng nhất của Mỹ trong các thể chế quốc tế, khu vực quan trọng, như Nhóm 7 quốc gia có nền kinh tế phát triển lớn nhất thế giới (G-7), Nhóm các nền kinh tế lớn (G-20), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD); thứ năm, EU cũng là nơi khởi nguồn của kinh tế thị trường tự do, tư bản chủ nghĩa và có mối quan hệ kinh tế, thương mại xuyên Đại Tây Dương mang tính lịch sử với Mỹ kể từ Chiến tranh thế giới thứ nhất đến nay và là địa bàn chiến lược giúp Mỹ kiềm chế Nga ở phía Tây và Trung Quốc ở phía Đông của lục địa Á - Âu.

Hơn nữa, EU cũng cần phải dựa vào Mỹ và phương Tây để hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược của khối, phục hồi nền kinh tế sau đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu; giúp nâng cao vị thế nước lớn của EU, nhất là trong các lĩnh vực môi trường, biến đổi khí hậu, “sức mạnh mềm”, công nghệ; củng cố quyền “tự chủ chiến lược” về quốc phòng, an ninh tại châu Âu thông qua lực lượng phản ứng nhanh của châu Âu và FOIP; củng cố vị thế hạt nhân của EU trước các thách thức hạt nhân đến từ Nga thông qua Liên minh hạt nhân Pháp - Mỹ - Anh; giúp EU củng cố sức mạnh kinh tế, chính trị của EU trong khuôn khổ Sáng kiến B3W, PGII; củng cố sức mạnh công nghệ của EU, tạo nền tảng cho khối này chuyển đổi thể chế từ kinh tế truyền thống sang kinh tế số và thích ứng với biến đổi khí hậu... Đây chính là những nguyên nhân quan trọng để EU tiếp tục duy trì phối hợp với Mỹ và các nước phương Tây để điều chỉnh chiến lược, chính sách nội khối trong thời gian tới.

Có thể nói, việc Nga tiến hành “chiến dịch quân sự đặc biệt” tại Ukraine đã tạo ra động lực quan trọng để EU có những sự điều chỉnh chiến lược để khối này có thể thích ứng nhanh chóng, hiệu quả với những biến động phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực. Đồng thời, giúp EU trở lên chủ động hơn trong các vấn đề quốc tế thông qua sự phối hợp chính sách với đồng minh truyền thống là Mỹ trong giải quyết các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống mà EU đang phải đối mặt, như môi trường, biến đổi khí hậu, nhập cư, cạnh tranh nước lớn, nhất là các thách thức đến từ Trung Quốc, Nga./.

------------------------------

(1) là thỏa thuận quốc tế nhằm mục đích chấm dứt chiến tranh Donbas giữa các nhóm ly khai vũ trang của Nga và Lực lượng vũ trang Ukraine, trong đó lực lượng chính quy của Nga đóng vai trò trung tâm.
(2) là diễn đàn không chính thức do các nhà ngoại giao Pháp, Đức, Nga và Ukraine lập ra vào năm 2014, sau khi nổ ra xung đột vũ trang đòi ly khai ở vùng Donbass (miền Đông Ukraine).
(3)  Amin Mohseni - Cheraghlou: “Europe needs a new energy option that isn’t Russia. It should turn to North Africa” (Tạm dịch: Châu Âu cần một lựa chọn năng lượng mới không phải là Nga, mà nên là Bắc Phi), ngày 29-3-2022, https://www.atlanticcouncil.org/blogs/menasource/europe-needs-a-new-energy-option-that-isnt-russia-it-should-turn-to-north-africa/
(4)  Xem: Thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 92, ngày 11-4-2023, tr. 9
(5) Xem: Thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 87, ngày 6-4-2023, tr. 13
(6)  EU Ambassadors Annual Conference 2022: Opening speech by High Representative Josep Borrell (Tạm dịch: Hội nghị thường niên các Đại sứ EU năm 2022: Diễn văn khai mạc của Đại diện cấp cao Josep Borrell), ngày 10-10-2022, https://www.eeas.europa.eu/eeas/eu-ambassadors-annual-conference-2022-opening-speech-high-representative-josep-borrell_en
(7)  Sanctions adopted following Russia’s military aggression against Ukraine (Tạm dịch: Các biện pháp trừng phạt được thông qua sau cuộc chiến tranh quân sự của Nga đối với Ukraine),  https://finance.ec.europa.eu/eu-and-world/sanctions-restrictive-measures/sanctions-adopted-following-russias-military-aggression-against-ukraine_en
(8) Đàm Linh: “EU nhất trí gói trừng phạt thứ 13 nhằm vào Nga”, Trang điện tử Đài Truyền hình Việt Nam, ngày 22-2-2024, https://vtv.vn/the-gioi/eu-nhat-tri-goi-trung-phat-thu-13-nham-vao-nga-20240222062409817.htm
(9) Xem: Thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 117, ngày 11-5-2023, tr. 20