Việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới sẽ dẫn đến những thay đổi trong các ngành kinh tế nước ta, trong đó có nông nghiệp. Nghiên cứu những cam kết với WTO và tác động của nó đến sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam là nội dung chính của bài viết dưới đây.

Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các ngành kinh tế đất nước sẽ có nhiều thay đổi. Đối với nông nghiệp, những biến đổi do tác động của việc gia nhập WTO cũng không tránh khỏi. Bài viết nghiên cứu các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực nông nghiệp và tác động của nó đối với sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam.

1 - Các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực nông nghiệp

Tổ chức Thương mại thế giới đã thấy sự cần thiết phải đưa vấn đề nông nghiệp vào trong khuôn khổ những nguyên tắc của mình nhằm chống lại một thực tế là giá cả trên thị trường nông sản thế giới thường bị bóp méo. Bởi đây là mặt hàng có tính nhạy cảm cao, luôn được các nước có chính sách duy trì bảo hộ cao, chặt chẽ và đồng thời tìm cách hỗ trợ cho xuất khẩu. Cụ thể, Hiệp định Nông nghiệp (AOA), với mục tiêu cải cách thương mại quốc tế đối với hàng nông sản theo hướng công bằng, bình đẳng, góp phần củng cố vai trò của thị trường, đã yêu cầu các nước phải chấp nhận 2 điều kiện: i) Giảm trợ cấp, bao gồm cả trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp sản xuất; ii) Tăng mức độ mở cửa thị trường hay nói cách khác là tăng sự tiếp cận thị trường. Vì vậy, khi gia nhập WTO, nước ta cũng phải thực hiện những cam kết trên.

* Về các cam kết cắt giảm trợ cấp

Đối với trợ cấp xuất khẩu, nước ta cam kết bãi bỏ ngay trợ cấp xuất khẩu cho hàng nông sản khi được chính thức kết nạp vào WTO. Tuy nhiên, chúng ta vẫn được bảo lưu quyền thụ hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho một nước đang phát triển trong lĩnh vực này trong một thời gian nhất định.

Đối với trợ cấp sản xuất trong nước: Theo thông báo của Việt Nam cho WTO, tổng mức hỗ trợ sản xuất trong nước (Total AMS) giai đoạn cơ sở 1999 - 2001 là 3.961,59 tỉ VNĐ/năm. Các chính sách hỗ trợ của chúng ta đa phần nằm trong diện "hộp xanh" và "Chương trình phát triển" dành cho các nước đang phát triển tầm trung bình. Đây là những nhóm được tự do áp dụng. Tuy nhiên, trong một số năm tới, ngân sách nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này.

Ở nhóm hỗ trợ "hộp đỏ" nước ta vẫn được phép trợ cấp tối đa 10% giá trị sản lượng hàng nông sản. Về nguyên tắc, những cam kết về việc loại bỏ trợ cấp đối với sản xuất hàng nông sản không ngăn cản Việt Nam tiếp tục hỗ trợ cho ngành sản xuất nông sản của nước ta. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế và ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp như chúng ta hoàn toàn không phải dễ dàng áp dụng được đầy đủ các yêu cầu của Hiệp định nông nghiệp.

* Về các cam kết mở cửa thị trường hàng nông sản

Việc trở thành thành viên chính thức của WTO có tác động đến nền nông nghiệp Việt Nam: một số cơ hội mở ra song cạnh tranh tăng lên đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp tích cực như đấu tranh chống phân biệt đối xử, tăng sản phẩm chế biến sâu, tăng cường nghiên cứu thị trường,...

Trong tiến trình đàm phán song phương với 28 đối tác và đàm phán đa phương về mở cửa thị trường, Việt Nam đã cam kết giảm thuế nông sản 20% so với mức thuế ưu đãi tối huệ quốc (MFN) hiện hành, tức là từ mức 23,5% như hiện nay xuống còn 20,9% (tính theo mức thuế trong hạn ngạch của một số mặt hàng) trong vòng từ 5 đến 7 năm tới. Mức độ giảm có sự khác nhau giữa các sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm. Khái quát chung là các sản phẩm chế biến hiện có mức thuế cao (40% - 50%) thì bị yêu cầu giảm nhiều hơn so với nông sản thô.

Những nhóm hàng cụ thể phải giảm nhiều là thịt, sữa, rau quả chế biến, thực phẩm chế biến, quả ôn đới (táo, lê, đào, nho, ki-wi). Các mặt hàng nông sản thô chúng ta có khả năng xuất khẩu lớn như gạo, cà-phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều... không giảm hoặc giảm rất ít. Một số mặt hàng vẫn sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan trong một thời gian nữa là đường, muối, trứng, gia cầm, thuốc lá(1).

2 - Những tác động đối với sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

Từ việc nghiên cứu những cam kết trong tiến trình thực hiện Hiệp định Nông nghiệp trong WTO, có thể nhận thấy một số tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta như sau:

Thứ nhất, khi gia nhập WTO, việc các nước tuân theo Hiệp định Nông nghiệp, tức là duy trì thuế nhập khẩu ưu đãi trong phạm vi hạn ngạch thuế quan, sẽ đảm bảo sự thâm nhập hàng nông sản nước ta vào thị trường các nước nhập khẩu một cách ổn định. Tuy vậy, vẫn còn một số hạn chế đối với sự bảo đảm nói trên. Ví dụ, một số công trình nghiên cứu cho thấy, một số nước phát triển chỉ duy trì thuế quan thấp trong hạn ngạch thuế quan đối với việc nhập khẩu những loại ngũ cốc có chất lượng thấp dùng làm thức ăn chăn nuôi hoặc sẽ được tái xuất khẩu dưới danh nghĩa của chương trình viện trợ về lương thực. Còn những mặt hàng khác, cạnh tranh gay gắt với nông sản của họ, thì lại chưa duy trì thuế quan thấp trong hạn ngạch.

Thứ hai, nguyên tắc mở cửa thị trường công khai trong Hiệp định Nông nghiệp phụ thuộc vào cách thức phân bổ hạn ngạch nhập khẩu tối thiểu(2), và do vậy, đã tạo ra một số các biện pháp điều tiết khối lượng xuất nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp mang tính phân biệt đối xử, như phân biệt đối xử về khối lượng, phân biệt đối xử về giá. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu hàng nông sản buộc chúng ta một mặt phải có hình thức đấu tranh, đàm phán song phương, mặt khác phải tích cực tham gia trong tiến trình đàm phán đa phương để loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử này. Gia nhập vào WTO cho phép nước ta có tiếng nói để chống lại sự phân biệt đối xử đó.

Thứ ba, phần lớn sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, là các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới. Trong khi đó đã có rất nhiều các sản phẩm nhiệt đới được miễn thuế nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường của các nước phát triển dựa trên cơ sở của các hiệp định ưu đãi khác nhau. Chẳng hạn như, Hiệp định chung về ưu đãi thuế quan (GSP). Tuy nhiên, một trong những vấn đề chưa được giải quyết đối với sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới là mức độ leo thang của thuế quan đối với sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến(3). Hiệp định Nông nghiệp đã yêu cầu các nước thành viên phải đưa ra mức thuế trần để giải quyết vấn đề này(4). Do đó, Hiệp định này đã tạo ra một số cơ hội tốt cho Việt Nam chuyển dần sang quá trình chế biến và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới dành cho xuất khẩu và tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam(5).

Thứ tư, nếu vòng đàm phán Đô-ha kết thúc thành công, dự đoán sẽ có một sự gia tăng nhất định về giá thực tế trong buôn bán hàng nông sản, đặc biệt là giá lương thực. Điều này xảy ra là do giảm trợ cấp của các nước phát triển (đặc biệt là các nước trợ cấp xuất khẩu lương thực). Sự gia tăng giá trên thị trường sẽ mang lại những lợi ích nhất định cho Việt Nam (là một trong những nước xuất khẩu lương thực và nông sản lớn của thế giới) bởi khối lượng sản xuất và kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng nhờ việc tăng giá.

Thứ năm, do tác động của cơ chế thị trường nên rất dễ dẫn đến tác động nghiêm trọng tới an ninh lương thực. Việt Nam, mặc dù là nước xuất khẩu lương thực và các sản phẩm sơ chế khác, nhưng lại là nước nhỏ, sản xuất manh mún (chỉ đạt 0,8 ha đất nông nghiệp/hộ), nên năng suất lao động thấp, thu nhập theo đầu người không cao, trong khi đó khả năng nghiên cứu dự báo tình hình sản xuất, giá cả, xuất khẩu hàng nông sản kém. Vì vậy, nếu không có chiến lược lâu dài chúng ta sẽ dễ bị tổn hại khi xảy ra những biến động về thị trường từ bên ngoài. Nếu như xảy ra sự giảm sút sản xuất lương thực trên thế giới, có thể có tác động mạnh đến dự trữ lương thực và an ninh lương thực quốc gia. Do đó, đòi hỏi các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, các cơ quan nghiên cứu trong nước phải nâng cao khả năng dự báo về tình hình giá cả và biến động của thị trường đối với hàng nông sản.

Thứ sáu, Hiệp định Nông nghiệp yêu cầu cắt giảm trợ cấp cho sản xuất và xuất khẩu nông sản sẽ làm giảm khối lượng lương thực dư thừa cần thiết cho viện trợ và chi phí cho viện trợ lương thực chính thức sẽ gia tăng đáng kể, từ đó viện trợ lương thực sẽ giảm bởi chính phủ các nước sẽ giảm bớt kho dự trữ. Mặt khác, do sức ép về chính trị ở trong nước ngày càng tăng để có lương thực viện trợ cho các trường hợp khẩn cấp và viện trợ nhân đạo, nên sẽ có ít lương thực hơn để viện trợ thay thế cho việc nhập khẩu mang tính chất thương mại mà các nước có thu nhập thấp vẫn phải nhập khẩu(6). Vì lý do trên, Việt Nam có thể thúc đẩy tiến trình hợp tác ba bên: giữa Việt Nam, một nước Châu Phi và các tổ chức quốc tế tiến hành hoạt động sản xuất lương thực tại một nước đang phát triển (châu Phi) theo quy trình sản xuất của Việt Nam.

Thứ bảy, đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chính sách trong nước (hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu) phù hợp với Hiệp định Nông nghiệp. Hiệp định cho phép hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất (nông dân), tuy nhiên để việc hỗ trợ này phù hợp với những điều đã cam kết với WTO, phải xây dựng thành các "Chương trình phát triển" với tiêu chí rõ ràng. Trong khi đó, do nguồn Tài chính có hạn, số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp lại quá đông (chiếm trên 70% số dân cả nước), nên các chính sách của ta hiện nay, nhất là những chính sách can thiệp thị trường lúc khó khăn lại hướng chủ yếu vào hỗ trợ nhà kinh doanh chứ không phải cho người sản xuất. Nhiều chính sách được ban hành mang tính chất tình thế, giải quyết khó khăn trước mắt, chưa có tính chiến lược lâu dài. Do vậy, việc chuyển đổi chính sách phù hợp với yêu cầu của Hiệp định Nông nghiệp là không đơn giản, phải có thời gian và điều kiện nhất định mới có thể khắc phục được tình trạng này.

Thứ tám, nền nông nghiệp nước ta vốn có trình độ phát triển thấp, chất lượng nhiều loại nông sản, đặc biệt nông sản qua chế biến còn chưa cao, trong khi đó gia nhập WTO Việt Nam sẽ phải hạ thấp thuế nhập khẩu và loại bỏ một số loại trợ cấp cho sản xuất như yêu cầu của Hiệp định Nông nghiệp, nên sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Chăn nuôi bò, lợn, gia cầm, sữa, công nghiệp chế biến thực phẩm, mía đường là những ngành có sức cạnh tranh kém, sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn ngay tại thị trường trong nước. Điều đó sẽ gây tác động bất lợi về kinh tế và xã hội cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta. Vì vậy, Chính phủ cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nông nghiệp và nông thôn phù hợp với từng địa phương. Nhanh chóng giải quyết những vấn đề kinh tế nảy sinh trong nông nghiệp, nông thôn. Tránh để các vấn đề kinh tế biến thành các vấn đề xã hội và từ các bức xúc xã hội biến thành các vấn đề chính trị, bởi kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á năm 1997 đã cho thấy rất rõ điều này.

Kết luận

Những phân tích trên đây cho phép đưa ra một kết luận: Mặc dù kết quả chủ yếu của Hiệp định Nông nghiệp là đã đưa lĩnh vực nông nghiệp vào khuôn khổ mới của WTO, dù còn ở một mức độ khiêm tốn, nhưng hy vọng sẽ được giải tỏa sau khi kết thúc thắng lợi vòng đàm phán Đô-ha. Việt Nam là nước có lợi thế về nông nghiệp, khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của một số mặt hàng sẽ được tăng lên nếu như phần lớn trợ cấp cho nông nghiệp của các nước phát triển bị bãi bỏ và các nước tuân thủ đúng yêu cầu của Hiệp định Nông nghiệp. Song, khi hội nhập đầy đủ vào WTO, do vẫn còn một số ngành khả năng cạnh tranh thấp, vì vậy chúng ta cần khẩn trương chuẩn bị để một mặt cố gắng trợ giúp các doanh nghiệp theo đúng quy định của Hiệp định Nông nghiệp, nhưng mặt khác phải chuẩn bị giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh như thất nghiệp, phá sản từ lộ trình cổ phần hóa, cho thuê, bán, khoán các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
 
 

*.TS, Học viện Quan hệ quốc tế
(1) Trong số các sản phẩm thuộc phạm vi Hiệp định về nông nghiệp, cá và các sản phẩm từ cá không nằm trong khuôn khổ Hiệp định trên mà thuộc sản phẩm công nghiệp. Nhóm các nước US, EU, Ca-na-đa, Nhật Bản đã có những cam kết về giảm thuế nhập khẩu đối với sản phẩm công nghiệp chế biến. Mặc dù mức thuế nhập khẩu đối với sản phẩm cá và cá đã thấp hơn so với các sản phẩm công nghiệp khác, ví dụ như thấp hơn mức thuế của sản phẩm dược, điện tử, gỗ, nhưng so với các sản phẩm nông nghiệp thì mức thuế đối với cá và sản phẩm cá vẫn còn cao hơn
(2) Việc quản lý những hạn ngạch tối thiểu, về thực chất là nhằm mục đích hợp pháp hóa vai trò quyết định của các doanh nghiệp nhà nước. Khi các doanh nghiệp nhà nước có được quyền bán sản phẩm trên thị trường nội địa, cộng với độc quyền xuất khẩu nông sản, họ có thể lựa chọn mức định giá, và như vậy, có thể thay đổi giá nội địa một cách dễ dàng kín đáo
(3) Thực tế cho thấy, vào thời kỳ đầu của vòng đàm phán UR, quá trình thương lượng về các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới và các nguyên liệu thô chưa qua chế biến (sản phẩm xuất khẩu quan trọng của các nước đang phát triển) được tiến hành riêng biệt, bởi những sản phẩm này không là đối tượng cạnh tranh trực tiếp với các mặt hàng nông sản xuất khẩu đã qua chế biến của các nước phát triển. Mục đích tách riêng các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới khỏi các sản phẩm nông nghiệp khác là để tránh những khó khăn trực tiếp hoặc những tranh chấp liên quan đến những sản phẩm nông nghiệp của vùng có khí hậu ôn đới. Sau khi vòng đàm phán UR đã không kết thúc vào tháng 12-1990 như dự định, các nhóm đàm phán riêng về các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới đã bị giải tán và vấn đề này được thảo luận trong khuôn khổ vòng đàm phán về nông nghiệp
(4) Trong trường hợp như cao su, đay, dầu thực vật, các loại gia vị, thuốc lá, gỗ, là một ví dụ điển hình, thuế quan đối với thành phẩm của các mặt hàng nói trên đã được giảm nhiều so với các sản phẩm chưa qua sơ chế hoặc bán thành phẩm
(5) Trong khi đó, các nước đang phát triển khác được hưởng những ưu đãi của EU và các nước khác theo những Hiệp định buôn bán có ưu đãi, ví dụ như Hiệp định Lomé gồm các nước Châu Phi, Ca-ri-bê, Thái Bình Dương (African, Carribean and Pacific, ACP), đã bày tỏ sự lo ngại trong tương lai họ sẽ được hưởng những ưu đãi ít hơn bởi việc giảm thuế quan của Hiệp định nông nghiệp
(6) Thực tế trợ giúp về mặt kỹ thuật đã giảm đáng kể từ năm 1990, cả viện trợ song phương cũng như viện trợ đa phương thuộc hệ thống Liên hợp quốc. Các viện nghiên cứu nông nghiệp quốc tế, cũng như Tổ chức Cung cấp tài chính chủ yếu là Quỹ Rockerfeller đã giảm tỷ lệ trợ giúp cho các dự án viện trợ nông nghiệp. Mặc dù vậy, viện trợ tổng thể có tăng nhưng tăng rất chậm, bởi chính phủ các nước công nghiệp phát triển đã giảm cung cấp tài chính cho các Tổ chức Tài chính quốc tế