Bài học về sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Lê Hữu Đức Thượng tướng, TS, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
19:09, ngày 09-07-2013
TCCS - Năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân ta, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi ấy trở thành một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, đồng thời đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX. Nhìn nhận về giai đoạn đấu tranh cách mạng này, một trong những nguyên nhân, đồng thời cũng là bài học sâu sắc nhất được rút ra, là sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt của Đảng ta.

Sớm nhận rõ và đánh giá đúng kẻ thù, đưa ra chủ trương, đường lối phù hợp với từng thời điểm lịch sử, lãnh đạo đánh thắng kẻ địch từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn

Trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết (tháng 7-1954), tại Hội nghị Trung ương 6 (từ ngày 15 đến 18-7-1954), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Đông Dương và nhân dân Việt Nam. Thực tiễn đã diễn ra đúng như vậy. Với dã tâm chiếm Đông Dương làm bàn đạp mở rộng chiến tranh xâm lược, Mỹ đã hất cẳng Pháp khỏi miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”, Mỹ - Diệm thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng ở miền Nam, từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, chúng đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên của ta. Giữa năm 1956, chúng tuyên bố từ chối Hiệp thương Tổng tuyển cử theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ và công khai hô hào “lấp sông Bến Hải” để “Bắc tiến”. Những hoạt động của Mỹ đã bộc lộ rõ dã tâm của chúng là biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự để mở rộng chiến tranh xâm lược miền Bắc, từng bước đè bẹp phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở khu vực Đông Nam Á.

Nhận rõ kẻ thù, tại Hội nghị Trung ương 15 (năm 1959), Đảng ta chỉ rõ: Mỹ - Diệm chẳng những là kẻ thù của nhân dân miền Nam đang bị chúng thống trị mà còn là kẻ thù của cả dân tộc Việt Nam, của nhân dân miền Bắc đã được giải phóng. Trong Diễn văn khai mạc Đại hội III của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, chưa giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ - Diệm thì nhân dân ta vẫn chưa thể ăn ngon ngủ yên. Từ nhận diện rõ kẻ thù, nhất là âm mưu, thủ đoạn, chính sách cơ bản của chúng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt đánh giá đúng tương quan lực lượng địch - ta, từ đó có chủ trương, quyết sách phù hợp đối với từng thời điểm lịch sử, đánh thắng địch từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Với quan điểm khoa học, biện chứng và cách mạng, Đảng ta khẳng định: Mỹ và tay sai có quân đông nhưng không có cơ sở chính trị sâu rộng và vững chắc, tuy quân sự chúng còn mạnh, nhưng chính trị của chúng lại rất yếu mà yếu nhất là ở nông thôn. Do đó, Đảng ta xác định con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Từ chủ trương đúng đắn này, phong trào Đồng Khởi đã nổ ra và nhanh chóng phát triển thành cao trào, đưa cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, mở đầu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.
Từ năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam và thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, khi đó ở một số người xuất hiện tư tưởng “sợ Mỹ”, thiếu lòng tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Trước tình hình đó, Đảng ta sáng suốt nhận định: Mỹ là một đội quân mạnh nhưng vào miền Nam không phải trong thế mạnh, mà trong thế yếu, thế bị động. Chỗ yếu cơ bản nhất của chúng vẫn là về chính trị. Còn về phía ta, lúc này không chỉ đã mạnh về chính trị mà cả về quân sự. Đây là cơ sở để ta hạ quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Do đó, Hội nghị Trung ương 12 (tháng 12-1965) đã đề ra nhiệm vụ “Động viên lực lượng cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào”. Ở miền Nam, ta chỉ đạo kiên quyết giữ vững thế chiến lược tiến công, đánh Mỹ, diệt ngụy, nhất là sau khi đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967. Ở miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, đặc biệt là trận “Điện Biên Phủ trên không” tại Hà Nội, Hải Phòng. Như vậy, thực tế đã chứng minh quan điểm đánh giá so sánh lực lượng của Đảng ta là hoàn toàn chính xác.

Sau Hiệp định Pa-ri (tháng 1-1973), Mỹ rút quân khỏi miền Nam, cục diện chiến trường, so sánh lực lượng giữa ta và địch có sự thay đổi lớn. Tuy nhiên, được Mỹ tiếp sức, quân ngụy liên tục tiến hành các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm lại nhiều vùng giải phóng của ta. Trước tình hình đó, Đảng đã ra Nghị quyết số 21 (tháng 7-1973) chỉ đạo cách mạng miền Nam kiên quyết phản công, giữ vững vùng giải phóng, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ và đón thời cơ để tiến lên giành thắng lợi quyết định bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mở đầu là trận then chốt Buôn Ma Thuột và kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giành thắng lợi hoàn toàn trong vòng chưa đầy hai tháng.

Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam

Ngay từ tháng 7-1954, Đảng ta đã xác định phải xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước. Tại Hội nghị Trung ương 7 (tháng 3-1955), nhiệm vụ cách mạng của hai miền được xác định rõ hơn, trong đó miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đến Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960) lại tiếp tục khẳng định: “Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”; “đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam”(1), đồng thời góp phần bảo vệ miền Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế đã chứng minh, sự gắn bó của cách mạng hai miền đã tập hợp được sức mạnh của cả đất nước. Trong khi miền Bắc dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục đã thể hiện vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng, kiên cường vượt qua mọi thử thách ác liệt, sáng tạo ra nhiều cách đánh đầy uy lực, như đồng khởi, vành đai diệt Mỹ, đánh địch bằng “hai chân, ba mũi, ba vùng”,... xứng đáng là Thành đồng của Tổ quốc.

Đảng ta luôn giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, thực hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế phức tạp, với cả thuận lợi và không ít khó khăn. Kẻ thù của ta lại là một đế quốc có sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, quân sự hàng đầu thế giới, âm mưu của chúng là chiếm miền Nam, tiến tới xâm chiếm cả nước ta; thực hiện chia rẽ Bắc - Nam và chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, cuộc đấu tranh giữa nhân nhân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc với đế quốc Mỹ xâm lược đã trở thành “cuộc đụng đầu lịch sử” vô cùng quyết liệt giữa hai lực lượng: cách mạng và phản cách mạng. Trong cuộc đấu tranh này, Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong việc hoạch định đường lối kháng chiến, đồng thời cũng nhấn mạnh việc cần thiết phải tăng cường đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.

Đường lối này đã phản ánh đúng nguyện vọng và ý chí quyết tâm của nhân dân ta, dân tộc ta, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam và xu thế tiến bộ của nhân loại, tạo sự đoàn kết nhất trí, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Để thực hiện đường lối này, một mặt, chúng ta tập trung phát triển tiềm lực của mình; mặt khác, thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn, mềm dẻo, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự đồng tình ủng hộ và đoàn kết hiệp đồng chiến đấu của hai nước Lào, Cam-pu-chia, sự giúp đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, Cu-ba... Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược rất sắc sảo, sáng tạo. Từ năm 1956, trên báo Sự thật (Liên Xô), Người viết: Trong tình hình quốc tế hiện nay, những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ở từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra chính sách của mỗi đảng cộng sản... và những vấn đề được đề ra cho đảng này hoặc đảng khác tuyệt nhiên không phải là việc riêng của mỗi đảng mà có quan hệ thiết thân đến toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế. Với tầm nhìn chiến lược ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích với bạn bè quốc tế rằng, việc dân tộc Việt Nam phải vạch ra những phương pháp và biện pháp riêng của mình để chống âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai hòng vĩnh viễn chia cắt đất nước cũng như để quá độ lên chủ nghĩa xã hội là điều thật rõ ràng, nhưng lúc này, sự đoàn kết thực sự của phe xã hội chủ nghĩa và của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với Việt Nam cũng cần thiết không kém gì hồi kháng chiến chống Pháp.

Để tăng cường đoàn kết quốc tế, Đảng ta chủ trương tranh thủ mọi lực lượng, tận dụng mọi nhân tố tích cực, hoan nghênh mọi sáng kiến vì hòa bình, kiên quyết đấu tranh có nguyên tắc, đồng thời khôn khéo, mềm dẻo, kiên trì thuyết phục nhằm hạn chế những yếu tố tiêu cực trong quan hệ quốc tế.
Do đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng độc lập, tự chủ trong xác định chủ trương, đường lối của mình, nhưng luôn chú trọng tăng cường đoàn kết quốc tế. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 21 của Đảng (tháng 7-1973) khẳng định: “Nhờ thực hiện đoàn kết quốc tế đến mức cao nhất và giữ vững độc lập tự chủ trong đường lối, chủ trương, chính sách của mình, khi tình hình thế giới thuận lợi cũng như lúc khó khăn, phức tạp, chúng ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa anh em, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ ủng hộ và giúp đỡ, trong đó sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em là cực kỳ quan trọng”(2). 

Có thể nói, Đảng giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo trong định ra và chỉ đạo thực hiện đường lối cách mạng là một trong những nguồn gốc sức mạnh, đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ta đã kết thúc toàn thắng cuộc đấu tranh gian khổ, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi vĩ đại này đã khẳng định ý nghĩa, vai trò sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn và sắc bén của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trong tình hình hiện nay, để thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ chiến lược, đòi hỏi chúng ta phải có nỗ lực rất lớn. Phải giữ vững ổn định về chính trị, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với an ninh và đối ngoại, tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân,... Đồng thời, Đảng ta còn cảnh báo về “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(3). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Vì vậy, “đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” hiện nay đang là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách nhất, cần tập trung chỉ đạo chặt chẽ và thường xuyên. Tuy nhiên, để tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả thiết thực, tránh hình thức, chiếu lệ, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, không né tránh.

Chúng ta cần nhận thức sâu sắc vấn đề này, từ đó có nhiều biện pháp tích cực, thiết thực để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, nòng cốt là khối liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức. Cần đặc biệt chú ý củng cố và xây dựng “thế trận lòng dân”, mà nội dung cơ bản là củng cố sự nhất trí về chính trị - tinh thần trong nhân dân, sự gắn bó giữa nhân dân với Đảng, giữa nhân dân với chế độ chính trị do Đảng lãnh đạo.

Đến nay, sau 38 năm đất nước hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt, những thành tựu nổi bật của hơn 26 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đã thật sự làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế trong thời kỳ mới. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường đã tạo điều kiện để ta giữ gìn, củng cố độc lập dân tộc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian tới, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng phát huy những thành quả cách mạng đã đạt được, quán triệt và thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ mà Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới toàn diện, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

------------------------------------------------

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 917

(2) Văn kiện Đảng đã dẫn, t. 34, tr. 222, 223

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 173