Xây dựng chính sách đặc thù lao động đối với cán bộ khoa học xã hội

Văn Tất Thu TS, Thứ trưởng Bộ Nội vụ
17:19, ngày 25-06-2012
TCCS - Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khoa học xã hội ngày càng mang tính chất liên ngành hơn và đang thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã  hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, với đặc điểm và tính đặc thù của mình, khoa học xã hội rất cần những cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển và các nhà khoa học xã hội ngày càng đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững đất nước.

Đặc điểm, tính đặc thù của khoa học xã hội và lao động của cán bộ khoa học xã hội

Khoa học xã hội là ngành khoa học nghiên cứu các quy luật hình thành, phát triển của xã hội và con người, về mối quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Nó cung cấp tri thức thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội phục vụ sự hoàn thiện con người và sự phát triển xã hội. Thành tựu của khoa học nói chung, khoa học xã hội nói riêng, mang lại những hiểu biết về bản chất, quy luật và tính lô-gic của mọi hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội dưới dạng trừu tượng. Nó giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động lịch sử - xã hội của con người, là cơ sở hình thành thế giới quan của chủ thể và là một trong những công cụ chủ yếu để nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Nó góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, giáo dục thế giới quan khoa học, phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người, xây dựng một xã hội tiên tiến, dân chủ, công bằng và văn minh. Đối với một nhà nước, khoa học xã hội sẽ cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của một thể chế chính trị; tư vấn, phản biện xã hội về các chủ trương, đường lối, chính sách của đảng cầm quyền và nhà nước thuộc thể chế chính trị đó. Vì vậy, khoa học xã hội có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia.

Nhiệm vụ của khoa học xã hội là phải tham gia thực sự vào quá trình hoạch định chính sách của nhà nước và trở thành nơi cung cấp luận cứ khoa học và phản biện cho quy trình hình thành và ban hành chính sách của nhà nước.

Ở các nước phát triển, khoa học xã hội đều trực tiếp tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Đây là quy luật phản ánh thuộc tính quan trọng nhất; đồng thời cũng là mục đích cao nhất của khoa học xã hội. Với tính cách là ngành khoa học nghiên cứu về con người và xã hội loài người, khoa học xã hội mặc nhiên có sứ mệnh cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học và phản biện cho quá trình hoạch định chính sách. Chỉ thực hiện tốt sứ mệnh này, thì sự tồn tại của khoa học xã hội mới có ý nghĩa và sự phát triển của khoa học xã hội mới trở nên lành mạnh và hữu ích cho xã hội, cho con người, cộng đồng quốc gia, dân tộc và nhân loại.

Khác với khoa học tự nhiên, ngay từ thời cổ đại, khoa học xã hội có sự gắn kết khá chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống. Đến thời cận đại và hiện đại, thiên chức này càng rõ ràng hơn, các khoa học xã hội vẫn tiếp tục gắn liền với thực tiễn chính trị - xã hội của nhân loại. Lịch sử đã ghi nhận nhiều trào lưu, học thuyết trong lĩnh vực này đã có tác động vô cùng to lớn đến tư duy chính trị - xã hội và kinh tế của các quốc gia, dân tộc. Các trào lưu tư tưởng thời kỳ Phục hưng; thời kỳ “triết học khai sáng” với các đại biểu như Vôn-te, Mông-tet-xki-ơ, Rút-xô, tiếp đó là học thuyết của C.Mác và nhiều học thuyết khác đã thực sự tạo nên những chuyển biến to lớn và căn bản suốt những thế kỷ XVIII, XIX, XX.

Nghịch lý của khoa học xã hội là mặc dù luôn gắn chặt với thực tiễn cuộc sống nhân loại, nhưng hiệu quả tác động và năng lực giải quyết vấn đề của đa số các ngành khoa học xã hội rất khó đo lường. Tuyệt đại đa số những thành tựu của khoa học xã hội đều đi vào cuộc sống thông qua hoạt động của con người một cách gián tiếp rồi mới dẫn đến hành vi. Vì thế, tác động của các khoa học xã hội vừa được ghi nhận là to lớn nhưng lại không thể đo đếm, “lượng hóa” hoặc “số học hóa” một cách cụ thể.

Khoa học xã hội thường cần một độ trễ nhất định về thời gian để tổng kết, đánh giá và kiểm nghiệm. Thời gian phát huy tác dụng của nó cũng chậm hơn so với khoa học tự nhiên và công nghệ. Vì vậy, không ít ý kiến cho rằng dường như khoa học xã hội luôn “lẽo đẽo” chạy theo cuộc sống và chẳng có tác động mấy đến cuộc sống.

Đặc trưng lớn nhất của khoa học xã hội là tính phổ quát (phổ thông, phổ cập). Khác với các thành tựu đỉnh cao trong khoa học tự nhiên và công nghệ, các thành tựu của khoa học xã hội đều có thể được hiểu, được sử dụng ngay trong hoạt động thực tiễn của con người và xã hội. Còn thành tựu, kết quả nghiên cứu của khoa học tự nhiên và công nghệ chỉ các chuyên gia của lĩnh vực này mới hiểu được, chẳng hạn: kết quả, phương pháp giải bổ đề toán học land-land của giáo sư Ngô Bảo Châu được giải thưởng toán học quốc tế năm 2010, chỉ những người có trình độ toán học lý thuyết cao mới am hiểu được.

Một đặc điểm nữa của khoa học xã hội là thiếu tính liên ngành, nhất là sự tích hợp liên ngành giữa các lĩnh vực khoa học xã hội với các khoa học tự nhiên và công nghệ trong giải quyết các vấn đề thực tiễn do cuộc sống đặt ra. Tuy nhiên, trong xu hướng phát triển chung của khoa học - công nghệ hiện nay, chính là quá trình toàn cầu hóa, tăng tốc trong hoạt động của khoa học - công nghệ đã làm thay đổi và tăng thêm tính liên ngành của khoa học xã hội.

Nằm trong xu hướng phát triển chung của khoa  học - công nghệ, từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, khoa học xã hội ngày càng có tính liên ngành hơn và đang thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã  hội ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Đi tiên phong là các ngành kinh tế học, khoa học chính sách, hành chính công, quản lý xã hội, công tác xã hội, xã hội học, tâm lý học. Tiếp đó, ngay cả các ngành khoa học xã hội vốn xa thực tiễn hơn, như  nghiên cứu văn hóa, khoa học chính trị, triết học, sử học, ngôn ngữ học, hay những khoa học mới, như khu vực học, quốc tế học, khoa học phát triển... cũng ngày càng tìm được phương thức xích lại gần hơn với cuộc sống, tạo ra những hướng tiếp cận phục vụ đắc lực cho sự phát triển.

Cán bộ khoa học xã hội là những người được đào tạo một cách bài bản, chính quy, hệ thống chuyên sâu theo các chuyên ngành khoa học xã hội, đồng thời trực tiếp nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội. Do đặc điểm của khoa học xã hội nên cán bộ khoa học xã hội cần có sự trải nghiệm cuộc sống mới tích lũy được kinh nghiệm nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Cán bộ khoa học tự nhiên (khoa học - công nghệ) từ khoảng 30 tuổi có thể trở thành giáo sư, nhưng cán bộ khoa học xã hội phải mất nhiều thời gian hơn. Cán bộ khoa học xã hội phải có sự rèn luyện, trải nghiệm qua thực tiễn nghiên cứu và cuộc sống mới có kinh nghiệm, khả năng tổng kết, phân tích, chắt lọc, khái quát trong nghiên cứu, mới tạo ra các sản phẩm có chất lượng, có giá trị. Thường thì cán bộ khoa học xã hội đến 40 tuổi mới đạt “độ chín” về nghề nghiệp. Đó là khi kinh nghiệm được đúc kết để viết thành sách, làm ra các sản phẩm có giá trị và chất lượng cao. Nhiều giáo sư, nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội sau tuổi nghỉ hưu vẫn có khả năng nghiên cứu và cho ra đời nhiều công trình có chất lượng cao.

Sản phẩm lao động của cán bộ khoa học xã hội là kết tinh của công sức, trí tuệ, chất xám, kinh nghiệm. Giá trị kinh tế của nó khó có thể cân, đong, đo, đếm được. Lao động của cán bộ khoa học xã hội khác với lao động của cán bộ khoa học tự nhiên và công nghệ là không đưa ra được lợi ích kinh tế - xã hội tức thì, lợi ích kinh tế trước mắt, mà phải qua một thời gian sau mới có thể nhận thấy, mới được xã hội kiểm nghiệm, đánh giá và thừa nhận. Nói cách khác, giá trị và hiệu quả của sản phẩm lao động của các nhà khoa học xã hội không thể mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp và nhanh chóng. Các luận cứ khoa học do các nhà khoa học xã hội cung cấp để đảng cầm quyền và nhà nước hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, chỉ khi nào chính sách, pháp luật của nhà nước đi vào cuộc sống, được áp dụng và vận dụng trên thực tế thì mới thấy hết được chân giá trị của các luận cứ khoa học do họ đề xuất.

Một đặc điểm dễ thấy nữa là khoa học xã hội có tính trừu tượng khái quát cao nên hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội dễ rơi vào tình trạng cảm tính, chủ quan, duy ý chí, sai lầm khi người nghiên cứu chưa đủ kinh nghiệm, chưa đủ tầm khái quát, chưa có vốn sống và sự trải nghiệm thực tiễn nhất định. Đó chính là tính rủi ro trong nghiên cứu khoa học xã hội. Đảng và Nhà nước cần có cơ chế bảo lãnh, bảo hộ các rủi ro cho cán bộ  nghiên cứu khoa học xã hội.

Các quan điểm xây dựng chính sách đối với cán bộ khoa học xã hội.

1 - Phù hợp với chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ; phù hợp với quy hoạch phát triển bền vững nguồn nhân lực Việt Nam; chiến lược, quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.

2 - Coi việc thực thi chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng cán bộ khoa học xã hội là động lực, giải pháp quan trọng và hữu hiệu để xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học xã hội hùng hậu, đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng, đủ năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước, mở cửa và hội nhập quốc tế. Đầu tư và ưu đãi đối với cán bộ khoa học nói chung, cán bộ khoa học xã hội nói riêng, với tính đặc thù của nó là sự đầu tư của Nhà nước cho nguồn nhân lực chất lượng cao, có vai trò cực kỳ quan trọng  trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đó là đầu tư cho sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc.

3 - Xây dựng chính sách đặc thù đãi ngộ, trọng dụng, khen thưởng và tôn vinh cán bộ  khoa học xã hội là trách nhiệm xã hội; đồng thời thể hiện thái độ và quan điểm đánh giá, sử dụng, trọng dụng cán bộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ khoa học xã hội.

4 - Chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng cán bộ khoa học xã hội phải bảo đảm công tâm, công bằng, công khai và minh bạch, phải tương xứng với thành tích, công trạng, đóng góp của cán bộ khoa học xã hội cho Đảng, Nhà nước và xã hội. Thành tích, công trạng đến đâu thì đãi ngộ, trọng dụng, khen thưởng và tôn vinh đến đó. Những người có thành tích, công trạng như nhau đều được Nhà nước đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng như nhau. Chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng  của Nhà nước đối với cán bộ khoa học xã hội phải có tính thuyết phục thực sự trước nhân dân, tổ chức, tập thể, đồng nghiệp và được ghi nhận trung thực, khách quan để mọi người dân, cũng như toàn xã hội biết đến.

5 - Chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng cán bộ khoa học xã hội phải bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, thường xuyên và nhất quán. Quan điểm nguyên tắc này nhằm đạt yêu cầu chính sách phải toàn diện, được xem xét và thi hành bằng cả hai khía cạnh về vật chất và tinh thần; phải đồng bộ trong các hệ thống chính sách và cần được áp dụng, vận dụng thường xuyên, liên tục nhất quán, tránh tùy tiện và cảm tính.

6 - Chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng đối với cán bộ khoa học xã hội phải phù hợp với đặc thù của khoa học xã hội, với tính chất lao động, nghề nghiệp riêng có của cán bộ khoa học xã hội. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà Nhà nước ban hành cơ chế đặc thù; chế độ chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng đặc thù… Quan điểm, nguyên tắc này phải tránh biện pháp và phương thức hành chính hóa trong đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng.

7 - Chính sách đãi ngộ, trọng dụng và tôn vinh, khen thưởng cán bộ khoa học xã hội phải đáp ứng được các yêu cầu cao của Nhà nước về bổn phận, trách nhiệm cống hiến và phẩm chất chính trị của cán bộ khoa học xã hội đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Cán bộ khoa học xã hội muốn Nhà nước trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng xứng đáng thì phải không ngừng nêu cao trách nhiệm, tự giác lao động, sáng tạo, cống hiến hết sức mình cho Đảng, Nhà nước và nhân dân.

8 - Chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng cán bộ khoa học xã hội phải song hành với  thái độ, chế độ, kỷ luật của Nhà nước đối với các cán bộ khoa học xã hội hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Mọi vi phạm của cán bộ khoa học xã hội về lao động, cống hiến cho Nhà nước, vi phạm đạo đức nghề nghiệp và thái độ chính trị xấu hoặc thậm chí chống đối Đảng, Nhà nước và nhân dân phải xử lý nghiêm khắc theo pháp luật.

Phương hướng xây dựng chính sách trọng dụng, đãi ngộ, khen thưởng và tôn vinh cán bộ khoa học xã hội

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”(1).

Với tinh thần đó, công tác cán bộ trong lĩnh vực khoa học mà trọng tâm là xây dựng chính sách trọng dụng, đãi ngộ, khen thưởng và tôn vinh những cán bộ khoa học, trong đó có đội ngũ cán bộ khoa học xã hội nhằm xây dựng nguồn lực con người đủ mạnh để ngày càng đáp ứng tốt hơn sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo phương hướng cụ thể và hiệu quả nhất:

Một là, coi việc xây dựng chính sách trọng dụng, đãi ngộ, khen thưởng và tôn vinh cán bộ khoa học xã hội là một trong những nội dung, nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, xây dựng nguồn lực của đất nước thời kỳ mới.

Hai là, xác định các chế độ, chính sách trọng dụng, đãi ngộ, khen thưởng và tôn vinh cán bộ khoa học xã hội đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ này theo một cơ cấu hợp lý, đủ về số lượng, mạnh về trình độ và năng lực chuyên môn, say mê nghề nghiệp, có tâm huyết và luôn đề cao trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Ba là, đổi mới toàn diện và đồng bộ hệ thống chính sách sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ, khen thưởng và tôn vinh cán bộ khoa học xã hội và có cơ chế, chính sách phù hợp để khai thác, phát huy, phát triển tốt năng lực nội sinh của khoa học xã hội vì sự phát triển nhanh và bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.   

Bốn là, có chính sách phù hợp, đồng bộ về đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học xã hội. Thực hiện dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong học thuật và trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo của cán bộ khoa học xã hội.

Năm là, xây dựng các chính sách trọng dụng, đãi ngộ, khen thưởng và tôn vinh có tính chất đặc thù, chuyên biệt đối với cán bộ khoa học xã hội, như các chế độ chính sách có tính chất đặc thù đối với nguồn nhân lực có chất lượng cao theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, coi đây là một trong các đột phá chiến lược.

Sáu là, đổi mới việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tăng cường đầu tư của Nhà nước cho khoa học xã hội và đội ngũ cán bộ khoa học xã hội.

Bảy là, đổi mới quan điểm, phương pháp đánh giá, sử dụng, tôn vinh cán bộ khoa học nói chung, đánh giá thành tích, cống hiến của cán bộ khoa học xã hội nói riêng; xây dựng hệ thống các tiêu chí, tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng và tôn vinh cán bộ khoa học xã hội một cách chân thực, chính xác. 

Tám là, xây dựng chế độ chính sách đặc biệt cho đội ngũ các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực khoa học xã hội, chú ý các chuyên gia đầu ngành của một số lĩnh vực chuyên ngành khoa học xã hội trọng điểm, chủ chốt của Nhà nước.          

Chín là, thực hiện các chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực khoa học xã hội ở trong và ngoài nước, chú trọng ưu tiên cho các ngành, các lĩnh vực chủ chốt, mũi nhọn có tính căn bản, đòn bẩy của khoa học xã hội.                    

Mười là, xây dựng các khung chính sách cụ thể trong đãi ngộ, trọng dụng, khen thưởng và tôn vinh các cán bộ khoa học xã hội, như chính sách tạo môi trường pháp lý dân chủ, tự do trong hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và quyền đề xuất, bảo lưu ý kiến khoa học, ý kiến và phát hiện mới có thể chưa phù hợp do chưa được kiểm nghiệm thực tế; chính sách sử dụng, trọng dụng cán bộ khoa học xã hội; chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, phát hiện và thu hút cán bộ khoa học xã hội; chính sách đãi ngộ đối với cán bộ khoa học xã hội; chính sách khen thưởng, tôn vinh cán bộ khoa học xã hội; chính sách bảo đảm cơ sở vật chất, điều kiện, trang thiết bị kỹ thuật làm việc cho cán bộ khoa học xã hội; chính sách bảo đảm an toàn cho cán bộ khoa học xã hội trong đời sống sinh hoạt, trong liên kết nghiên cứu ở trong và ngoài nước... nhằm tạo ra nguồn lực mạnh phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước./.

----------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 78