Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức - Mười năm nhìn lại
TCCS - Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06-8-2008, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, công tác xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta có những chuyển biến quan trọng. Vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức được nâng cao và không ngừng được củng cố, tăng cường về số lượng, chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển chung của đất nước trong tình hình mới.
Thực trạng xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức
Mười năm qua, trí thức Việt Nam phát triển nhanh về số lượng, nâng cao về chất lượng và đã thực sự hình thành một đội ngũ trí thức mới... Đội ngũ trí thức có những đóng góp không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ có mặt ở tất cả các lĩnh vực đời sống, kinh tế - xã hội, như chính trị, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn học - nghệ thuật... Đến năm 2017, ước tính cả nước có khoảng 6,5 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, tăng hơn 3,7 triệu người so với năm 2009 (năm đầu tiên triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW). Theo kết quả này, đội ngũ trí thức Việt Nam đã tăng thêm khoảng 2,8 triệu người sau 9 năm (2009 - 2017) so với 2,25 triệu người trong 10 năm trước khi ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW (1999 - 2009). Ngoài trí thức trong nước, còn có khoảng hơn 400.000 người trí thức Việt kiều (trong đó có hơn 6.000 tiến sỹ và hàng trăm trí thức tên tuổi được đánh giá cao) trên tổng số hơn bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Trong những năm qua, đội ngũ trí thức trực tiếp tham mưu, góp ý, phản biện vào những quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước. Do đó, trong việc xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách, hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở đều có sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức. Có thể khẳng định, Nghị quyết số 27-NQ/TW đã tạo động lực phát triển đội ngũ trí thức 10 năm qua.
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức.
Các cơ quan chức năng ban hành các văn bản tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng kiến; thực hiện Quy chế Dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Quy định về quyền hạn, điều kiện làm việc để phát huy năng lực và trách nhiệm của trí thức đầu ngành, các nhà khoa học và công nghệ có trình độ cao. Tạo cơ chế hoạt động, tổ chức nhiều diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều tỉnh, thành phố ban hành cơ chế cụ thể tạo điều kiện để trí thức tham gia tư vấn, phản biện và giám định xã hội về các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi địa phương mình thông qua Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, các sở, ngành về những nội dung có liên quan.
Thứ hai, thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức.
Các bộ, ngành, tỉnh, thành phố rà soát, đánh giá, đồng thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật với các tiêu chí cụ thể nhằm thu hút, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức. Có kế hoạch bố trí sử dụng đội ngũ trí thức một cách hợp lý, có chính sách thu hút trí thức trẻ được đào tạo chính quy thực sự có năng lực, có đạo đức tốt về công tác tại địa phương và khuyến khích đội ngũ trí thức tăng cường về cơ sở, vùng sâu, vùng xa. Đề ra cơ chế, chính sách thu hút, tập hợp trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài tích cực tham gia hiến kế, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mới. Các bộ, ngành Trung ương, cũng như các tỉnh, thành phố chú trọng công tác thi đua khen thưởng hằng năm, nhằm khuyến khích, tôn vinh trí thức có thành tích trong hoạt động báo chí, văn học - nghệ thuật, khoa học và phát triển công nghệ, thông qua việc tổ chức trao tặng các giải thưởng về báo chí, văn học - nghệ thuật, sáng tạo khoa học và công nghệ,... Qua hoạt động này, nhiều nhà khoa học, nhà báo, văn nghệ sỹ được tuyên dương, khen thưởng vì đã có những đóng góp xuất sắc vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Thứ ba, tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức.
Công tác giáo dục - đào tạo đã được định hướng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo đó, đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học. Thực hiện tốt kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập. Một số bộ, ngành và địa phương xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế - xã hội, có chính sách cụ thể trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, đặc biệt là trí thức con em đồng bào dân tộc thiểu số và trí thức nữ. Thực hiện tốt chính sách khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện cho trí thức thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tạo điều kiện cho trí thức định kỳ được bồi dưỡng, đào tạo lại chuyên môn đáp ứng yêu câu đòi hỏi của thực tiễn.
Thứ tư, đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức.
Nhằm không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của trí thức, các cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến địa phương thường xuyên quan tâm tới công tác tuyên truyền, giáo dục về lập trường tư tưởng cách mạng cho trí thức thông qua các đợt học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, lồng ghép vào nội dung hoạt động của tổ chức Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, các hội nghề nghiệp,... gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Từ đó, đội ngũ trí thức luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, quan điểm tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nêu cao lòng yêu nước, phát huy những phẩm chất tốt đẹp của trí thức. Tạo cơ chế để đội ngũ trí thức tham gia truyền bá những tiến bộ khoa học và công nghệ, ứng dụng vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao dân trí, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; tham gia giám sát, tham mưu, tư vấn và phản biện xã hội trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Các hội của trí thức, như Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học, Nghệ thuật Việt Nam từ Trung ương đến địa phương từng bước được củng cố, kiện toàn, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên theo tinh thần của Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 16-4-2010, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Theo đó, đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đẩy mạnh việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, phát huy trí tuệ sáng tạo của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ; chủ động tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án, đề án lớn. Một số tỉnh, thành phố ban hành các văn bản xây dựng quy chế để phối hợp và phát huy vai trò của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Hội Văn học, Nghệ thuật. Đây là cơ sở pháp lý để Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Hội Văn học, Nghệ thuật phát huy quyền và trách nhiệm của trí thức, văn nghệ sỹ đối với sự nghiệp phát triển của địa phương.
Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.
Nhiều cấp ủy, chính quyền coi công tác xây dựng đội ngũ trí thức là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên; tích cực chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, làm cho toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức, xây dựng một xã hội có nhiều con đường tiến thân và được xã hội trọng dụng. Cấp ủy các cấp luôn quan tâm củng cố và phát huy vai trò của tổ chức đảng trong các hội trí thức; lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các chính sách, chế độ, quy định cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng đội ngũ trí thức. Hoạt động đối thoại giữa trí thức với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền được nhiều địa phương, đơn vị tiến hành thường xuyên, trên tinh thần cởi mở, dân chủ. Các vấn đề quan trọng được bàn bạc công khai, đặc biệt là các lĩnh vực tham mưu, hoạch định chiến lược phát triển, các văn bản chỉ đạo về phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, thể hiện sự coi trọng vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội thực sự là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với đội ngũ trí thức. Thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đội ngũ trí thức luôn tích cực đóng góp xây dựng Đảng, chính quyền và phát huy khả năng phản biện những chủ trương, đề án do cấp ủy, chính quyền đề xuất, chăm lo củng cố, kiện toàn Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật và các hội thành viên.
Những vấn đề đặt ra
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, một số nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết còn chưa được triển khai triệt để, còn một số hạn chế, bất cập.
Một là, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức và trách nhiệm đối với đội ngũ trí thức chưa đầy đủ, sâu sắc; chưa gắn việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ trí thức vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong kế hoạch hằng năm cũng như dài hạn của địa phương. Nhiều địa phương chưa định kỳ tổ chức gặp mặt đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của trí thức.
Hai là, môi trường làm việc ở một số nơi chưa thật sự dân chủ, tự do sáng tạo, đặc biệt đối với trí thức khoa học xã hội và văn nghệ sĩ. Công tác cán bộ, công tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức còn nhiều bất cập, nhiều điểm không phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu ở một số ngành, lĩnh vực. Một số địa phương chưa có kế hoạch cụ thể về rà soát, thống kê số lượng trí thức nên việc đánh giá hiệu quả thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW chưa thật sự toàn diện; hầu hết các địa phương chưa xây dựng được chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020.
Ba là, chính sách thu hút trí thức có trình độ cao chưa thật sự hấp dẫn, chưa có nhiều chính sách hỗ trợ, phát triển đội ngũ trí thức hoạt động trong các doanh nghiệp; ở một số ngành xảy ra tình trạng chảy máu chất xám. Một số bộ, ngành, địa phương chưa cụ thể hóa các chính sách của Nhà nước về cơ chế thông tin về xây dựng và phát triển các tổ chức hội của trí thức để tập hợp trí thức. Chưa xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho các hội trí thức thực hiện các dịch vụ công, cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát các hoạt động nghề nghiệp, thực hiện tự chủ về tài chính. Chưa xây dựng và thực hiện các quy định về chế độ sinh hoạt đảng, đoàn thể mang tính đặc thù trong các hội của trí thức; chưa xây dựng kế hoạch phân luồng học sinh... Chưa xây dựng và thực hiện các quy định về giải thưởng cho các công trình nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học vào phát triển sản xuất và đời sống.
Bốn là, chưa phát huy tốt vai trò của tổ chức Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, nơi tập hợp và đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ. Việc tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội của đội ngũ trí thức còn hạn chế. Nhiều địa phương chưa ban hành cơ chế tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật. Công tác thu hút, tập hợp và định hướng hoạt động của các tổ chức hội trí thức chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Mô hình, phương thức hoạt động còn nhiều bất cập, chưa gắn với tình hình phát triển kinh tế - xã hội.
Năm là, một bộ phận trí thức chưa tâm huyết, chưa đầu tư nhiều thời gian cho học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, một số trí thức bị tác động bởi mặt trái của kinh tế thị trường, chưa thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ trí thức hiện nay còn yếu, nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng. Ý thức và quyết tâm học tập nâng cao trình độ ngoại ngữ của cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế.
Để thúc đẩy xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trong tình hình mới
Trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khi thế giới đang tiến hành cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đội ngũ các nhà trí thức khoa học, công nghệ đóng vai trò động lực, đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Người làm công tác khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trên các lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng, triển khai công nghệ tiên tiến và các dịch vụ khoa học, công nghệ khác. Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ tiếp tục khẳng định được vai trò động lực, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành thông qua việc tập trung xây dựng nhiệm vụ khoa học và công nghệ có quy mô lớn, theo cụm nhiệm vụ để giải quyết những vấn đề cấp thiết, trọng tâm, trọng điểm.
Thứ nhất, các tổ chức hội trí thức cần chủ động nghiên cứu, đề xuất với các cơ quan chức năng để đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động, tập hợp sức mạnh và trí tuệ của đội ngũ trí thức, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong tình hình mới. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám định xã hội... Chủ động phát hiện, thu hút, tập hợp, trí thức trẻ, trí thức trong các doanh nghiệp vào các tổ chức hội. Việc xây dựng đội ngũ trí thức, củng cố tổ chức hội phải gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết số 19-NQ/TW, về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII.
Thứ hai, thay đổi nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong phát triển bền vững, bảo đảm quốc phòng - an ninh đất nước. Định kỳ tổ chức các cuộc tiếp xúc, làm việc với trí thức để lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng của địa phương, đơn vị. Đẩy nhanh việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết số 27-NQ/TW, tạo môi trường làm việc thực sự phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự do sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác; công bằng trong học thuật, nghiên cứu, sáng tạo, trong triển khai ứng dụng khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội. Các cấp lãnh đạo, nhất là người đứng đầu cởi mở, sẵn sàng trao đổi, lắng nghe, đối thoại với trí thức. Trang bị đầy đủ, hiện đại cơ sở vật chất, trang thiết bị, có cơ chế thông thoáng, đơn giản của các thủ tục hành chính trong thực hiện các nhiệm vụ, đề tài, đề án khoa học,...
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và tổ chức nhiều diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chú trọng công tác thi đua, khen thưởng nhằm tôn vinh những trí thức giỏi, tài năng, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Cải tiến hệ thống giải thưởng khoa học và công nghệ, các danh hiệu tôn vinh tránh sự trùng lặp, chồng chéo giữa các cơ quan, tổ chức.
Thứ tư, thường xuyên quán triệt, củng cố nhận thức chính trị của đội ngũ trí thức về vai trò, trách nhiệm đối với đất nước. Tăng cường và đổi mới công tác tư tưởng của Đảng đối với trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ vì lý tưởng cao đẹp của Đảng, của dân tộc và trách nhiệm công dân đối với xã hội. Khắc phục sự thiếu chủ động trong hoạt động của các hội trí thức và hiện tượng suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ phận trí thức hiện nay. Tiếp tục triển khai thực hiện các nội dung của Nghị quyết số 27-NQ/TW gắn với việc thực hiện các văn kiện khác của Đảng (Nghị quyết số 20-NQ/TW, về khoa học và công nghệ, Nghị quyết số 29-NQ/TW, về giáo dục và đào tạo, Nghị quyết số 33-NQ/TW, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, văn kiện Đại hội XII của Đảng...).
Thứ năm, xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp cho đất nước. Tạo môi trường làm việc thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý khoa học và công nghệ ở các ngành, các cấp. Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức lồng ghép trong việc xây dựng các quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh./.
Thủ tướng: Tây Ninh cần trở thành hình mẫu làm giàu từ nông nghiệp  (21/08/2018)
Thông tin kinh tế đáng chú ý trong tuần (từ ngày 13 đến 19-8-2018)  (21/08/2018)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam