TCCSĐT - Phát biểu tại Hội nghị tổng kết thực hiện kế hoạch 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu Tập đoàn tập trung mọi nguồn lực để bứt phá trong đầu tư phát triển nguồn điện, lưới điện, bảo đảm không để thiếu điện trong mọi trường hợp.

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng ghi nhận, đánh giá cao và biểu dương cán bộ, công nhân viên và người lao động toàn Tập đoàn đã đoàn kết, nỗ lực lao động, khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ, góp phần quan trọng cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2018.

Phó Thủ tướng khẳng định, năm 2018, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự tập trung chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của người dân và doanh nghiệp, đất nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng

“Trong kết quả chung của cả nước, có sự đóng góp rất quan trọng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam - đơn vị chủ lực trong ngành năng lượng, có vai trò bảo đảm cung cấp điện năng cho phát triển kinh tế, xã hội và sinh hoạt của người dân”, Phó Thủ tướng nói.

Nguy cơ thiếu điện là rõ ràng nếu không có giải pháp hữu hiệu

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, ngành điện nói chung, EVN nói riêng, đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong sản xuất, cung ứng đủ điện.

“Nguy cơ thiếu điện cục bộ trong những năm tới là rất rõ ràng nếu chúng ta không có các giải pháp hữu hiệu để phát triển nguồn, lưới điện. Đây là thách thức lớn nhất đối với toàn ngành”, Phó Thủ tướng khẳng định.

Theo Phó Thủ tướng, nhu cầu điện cho phát triển sản xuất và đời sống người dân đang tăng nhanh, vượt quá khả năng cung ứng. Hiện tổng công suất nguồn điện nước ta khoảng 48.000 MW. Với tốc độ tăng nhu cầu khoảng 10%/năm (theo Quy hoạch điện 7 điều chỉnh) đến 2025, dự kiến nhu cầu công suất nguồn điện trong hệ thống điện quốc gia sẽ là 90.000 MW, gấp đôi hiện nay. Đến năm 2030, nhu cầu khoảng 130.000 MW.

“Đáng chú ý, đây là tốc độ tăng trưởng theo tính toán, nhưng chúng ta đều biết con số thực tế có thể cao hơn do tốc độ phát triển kinh tế ngày càng nhanh”, Phó Thủ tướng nhận định.

Trong khi đó, thủy điện hiện đáp ứng khoảng 40% nhu cầu nhưng đã khai thác gần hết, khó có khả năng phát triển thêm.

Việc phát triển các nguồn điện thay thế gặp nhiều khó khăn do Việt Nam đã quyết định dừng triển khai điện nguyên tử; nhiều dự án nhiệt điện bị chậm tiến độ (cả các dự án của EVN, ngoài EVN). Các nguồn năng lượng tái tạo hiện chưa thể phát triển trên quy mô lớn do chi phí cao; hệ thống truyền tải chưa đáp ứng yêu cầu. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước với nguồn lực còn hạn chế, chưa đủ khả năng phát triển nguồn điện. Việc vay vốn nước ngoài để phát triển nguồn điện cũng gặp nhiều khó khăn do vướng các thủ tục về bảo lãnh Chính phủ.

“Hiện nay, các hồ thủy điện, đặc biệt tại miền Trung, đang thiếu nước trầm trọng; khả năng cung ứng than cho phát điện chưa ổn định; nguồn khí trong nước đã suy giảm mạnh nhưng nguồn thay thế triển khai chậm”. Tất cả đang đặt lên ngành điện sức ép rất lớn để thực hiện mục tiêu cung ứng đủ điện cho nền kinh tế, Phó Thủ tướng nói.

Theo Phó Thủ tướng, thách thức lớn đối với ngành điện còn đến từ sự mất cân đối giữa nguồn cung và nhu cầu sử dụng của từng vùng. Trong khi miền Nam sử dụng trên 50% tổng nhu cầu điện năng (miền Bắc gần 40%, miền Trung gần 10%) thì nguồn điện hiện nay lại tập trung chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung (gần 60%), miền Nam chỉ có thể tự sản xuất dưới 40%.

Trong bối cảnh đó, hệ thống truyền tải giữa các vùng, miền chưa đáp ứng yêu cầu, việc phát triển và quản lý hệ thống truyền tải điện còn nhiều bất cập. Đặc biệt, việc xây dựng các tuyến đường dây truyền tải “xương sống”, các tuyến nhánh còn chậm, chưa tương thích với tiến độ các dự án phát triển nguồn. Quá trình đàm phán nhập khẩu điện của nước ngoài diễn ra chậm.

Làm nhiệt điện, nhưng phải sạch

Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, người dân vẫn thiếu thông tin, hiểu chưa đầy đủ về ngành điện, về nhu cầu, nguồn cung, giải pháp đáp ứng đủ điện, đặc biệt về phát triển nhiệt điện…

“Thực tế, không phải tất cả các dự án nhiệt điện than đều ô nhiễm, quan trọng là sử dụng công nghệ hiện đại, giảm thiểu ô nhiễm, quản lý tốt quá trình đầu tư xây dựng, vận hành khai thác nhà máy”, Phó Thủ tướng nói.

Theo Phó Thủ tướng, Việt Nam không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế. Nhưng các nguồn năng lượng tái tạo hiện chi phí quá cao, vượt quá khả năng chi trả của người dân. Do đó, để phát triển và bảo đảm sinh hoạt cho người dân, Việt Nam cần nhiệt điện.

“Làm nhiệt điện, nhưng phải sạch. Kiên quyết không triển khai các dự án ô nhiễm môi trường”, Phó Thủ tướng khẳng định.

“Muốn như vậy, phải có cơ cấu nguồn điện hợp lý, kết hợp thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí và các nguồn nhiệt điện khác, các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo”, Phó Thủ tướng nêu nhiệm vụ.

Phó Thủ tướng đề nghị ngành điện cần chủ động tăng cường thông tin, tuyên truyền để người dân hiểu và đồng thuận với các nỗ lực của ngành nhằm bảo đảm đủ điện cho phát triển kinh tế và đời sống.

Bứt phá để bảo đảm đủ điện

Nhấn mạnh năm 2019 được xác định là năm bứt phá để hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch 5 năm, trong đó trọng tâm là bứt phá về hoàn thiện thể chế, bứt phá về đổi mới sáng tạo, bứt phá về huy động nguồn lực để phát triển đất nước, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đề nghị ngành điện nói chung, EVN nói riêng phải xác định trọng tâm “bứt phá” của mình.

“EVN phải xác định bứt phá về đầu tư phát triển nguồn điện và hệ thống truyền tải điện, bảo đảm không để thiếu điện trong bất kỳ tình huống nào”, Phó Thủ tướng nói.

Trên cơ sở đó, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh một số nhóm nhiệm vụ trọng tâm của EVN trong năm 2019.

Trước hết, EVN phải tiếp tục khẳng định vai trò là Tập đoàn nhà nước bảo đảm cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế và sinh hoạt.

EVN chủ động tham mưu cho Bộ Công Thương, cho Chính phủ hoàn thiện quy hoạch điện, trước hết điều chỉnh, bổ sung, cập nhật quy hoạch điện 7; xây dựng Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn đến 2030, tầm nhìn 2050.

“Phải tính toán cung - cầu điện cho từng giai đoạn; xác định lại cơ cấu các nguồn điện, hệ thống truyền tải trong từng giai đoạn, khu vực, vùng miền; xác định các nguồn điện ưu tiên để triển khai thực hiện”, Phó Thủ tướng nói.

Bên cạnh đó, toàn ngành phải tập trung nguồn lực để hoàn thành các dự án điện chậm tiến độ; triển khai các dự án nguồn mới. Cụ thể, EVN và các doanh nghiệp trong ngành điện đẩy nhanh tiếp độ các dự án nguồn điện lớn như Nhơn Trạch 3-4, Ô Môn 3-4, Tân phước, Long Phúc 2-3, Quảng Trạch, Quỳnh Lập… Tập trung đầu tư mạng lưới truyền tải giải toả công suất các khu vực phát triển năng lượng tái tạo.

Toàn ngành phải vận hành an toàn hệ thống (nguồn, mạng lưới, phụ tải…), đặc biệt là việc vận hành an toàn các nhà máy thủy điện; thực hiện có hiệu quả các giải pháp giảm tổn thất điện; đẩy mạnh tuyên truyền, thực hiện các chương trình sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả.

Bộ Công Thương khẩn trương nghiên cứu đầu tư các cảng trung chuyển than, hệ thống kho - cảng khí hóa lỏng cho sản xuất điện; sớm hoàn thành việc đàm phán, mua điện từ nước ngoài.

Phó Thủ tướng cũng yêu cầu EVN phải tiếp tục cơ cấu lại Tập đoàn, nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh.

Chủ động phối hợp với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các cơ quan liên quan trong việc thực hiện các thủ tục đầu tư (nguồn, lưới, nâng cao năng lực hệ thống điện…), bảo đảm đúng tiến độ; tiếp tục hoàn thiện tổ chức quản lý, bộ máy điều hành theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Làm tốt công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm công khai, minh bạch, nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm. Tiết kiệm chi phí trong sản xuất, đầu tư xây dựng. Rà soát lại danh mục các dự án, kiên quyết không đầu tư các dự án kém hiệu quả. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ mới.

Là một doanh nghiệp cung ứng dịch vụ thiết yếu cho người dân, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu EVN phải đẩy mạnh cải cách, nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp.

“EVN phải chủ động thực hiện các biện pháp giảm thời gian tiếp cận điện năng; tăng tính ổn định của toàn hệ thống, đặc biệt tại hộ tiêu thụ lớn (các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp lớn)… Minh bạch chi phí, giá thành, giá điện. Đặc biệt, phải phát huy truyền thống ngành điện vì dân, phục vụ nhân dân”, Phó Thủ tướng nêu nhiệm vụ.

Nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ môi trường, Phó Thủ tướng đề nghị EVN phải tiên phong trong việc quy hoạch nguồn, lựa chọn công nghệ thân thiện môi trường, phù hợp với trình độ, điều kiện của đất nước. Kiên quyết không đầu tư, triển khai các dự án không bảo đảm tiêu chuẩn môi trường, có nguy cơ gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

“Phải tập trung cho công tác xử lý tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện. Yêu cầu Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương phối hợp chặt chẽ với các hộ sản xuất nhiệt điện, tiêu thụ than xỉ để giải quyết triệt để”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

Trong dịp Tết nguyên đán Kỷ Hợi, Phó Thủ tướng yêu cầu EVN phải quan tâm đến đời sống của công nhân, người lao động ngành điện; chủ động thăm hỏi người dân khu vực có dự án.

Đồng thời, Tập đoàn cần triển khai các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, công nhân viên; thực hiện tốt các nhiệm vụ an sinh xã hội.

“Nhiệm vụ đặt ra cho EVN trong những năm tới là rất nặng nề, đòi hỏi toàn thể cán bộ, công nhân viên, người lao động của Tập đoàn phải chung sức, đồng lòng, phấn đấu và nỗ lực nhiều hơn nữa để thực hiện. Với truyền thống 65 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, tôi tin tưởng rằng nhất định EVN sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch năm 2019”, Phó Thủ tướng nói.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: “Chừng nào còn bắt buộc, chúng ta còn thua”

Cùng ngày, tại trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam cùng Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm, đại diện Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,… có buổi tọa đàm về định hướng và giải pháp để khoa học, công nghệ (KHCN) trở thành động lực trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0.

Tại tọa đàm, ý kiến của các đại biểu đều thống nhất khẳng định, KHCN là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này đã được khẳng định xuyên suốt trong nhiều văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực tế thời gian qua, KHCN đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội nước nhà.

Tuy nhiên trong kỷ nguyên 4.0, để KHCN tiếp tục khẳng định được vai trò quan trọng của mình với tinh thần “đã tiến bộ rồi, phải tiến bộ hơn nữa”, KHCN thực sự trở thành động lực để đất nước đi lên và doanh nghiệp phải trở thành trung tâm của Hệ thống sáng tạo quốc gia như kỳ vọng, chúng ta cần phải có những giải pháp đột phá cả về nhận thức và hành động như: Nâng cao nhận thức về vai trò động lực có tính quyết định của KHCN, tháo gỡ khó khăn vướng mắc về cơ chế, thúc đẩy doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng KHCN theo hướng gắn nghiên cứu với sản xuất và thị trường để doanh nghiệp thực sự trở thành trung tâm của hệ thống sáng tạo quốc gia.

Nhận định dù đã được khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong nhiều văn bản, tuy nhiên thực tế thời gian qua, KHCN chưa được nhiều lãnh đạo từ trung ương đến địa phương quan tâm “chú ý” một cách thực chất,… nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm cho rằng, chúng ta cần một tư duy mới trong quản lý KHCN, lấy KHCN là động lực hàng đầu để tạo chuyển biến về kinh tế, xã hội.

Theo nguyên Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, trước hết phải thay đổi nhận thức về vị trí, vai trò của KHCN từ những người đứng đầu, người thủ trưởng cơ quan. Người đứng đầu cơ quan từ trung ương đến địa phương phải tập trung chỉ đạo phát triển KHCN một cách thực chất, quyết liệt, chứ không phải bằng những phát biểu với nhiều mỹ từ - “nếu như vậy KHCN chỉ là “trang trí””.

Nhấn mạnh quan điểm KHCN phải đồng hành cùng sự phát triển của đất nước, phải thể hiện rõ nét vai trò trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống kinh tế, xã hội như: Nông nghiệp, an toàn giao thông; vệ sinh an toàn thực phẩm;… nguyên Phó Thủ tướng gợi mở: Phải “dựa” vào doanh nghiệp để đẩy mạnh phát triển KHCN. Theo đó, cần xây dựng cơ chế phù hợp để doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KHCN, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; phát triển hiệu quả các khu công nghệ cao; đồng thời cần thiết kế cơ chế thực chất thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp vào sự phát triển KHCN của đất nước…

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh yêu cầu cần nghiên cứu giải pháp đột phá để doanh nghiệp thực sự trở thành trung tâm của Hệ thống đổi mới sáng tạo. Cần có đột phá trong chính sách phân bổ nguồn lực (đặc biệt là chính sách thuế) để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KHCN. Thay vì xây dựng chính sách theo hướng “bắt buộc” lập Quỹ KHCN đầu tư cho nghiên cứu và triển khai thì cần có chính sách mà cụ thể nhất là chính sách thuế theo hướng tạo lợi ích để doanh nghiệp tự thấy cần phải tăng đầu tư cho nghiên cứu, phát triển.

Chúng ta không nên bắt buộc doanh nghiệp phải trích lập bao nhiêu phần trăm doanh thu cho Quỹ KHCN. Điều này dễ dẫn đến cách hành xử theo kiểu “đối phó”. Cần có chính sách để doanh nghiệp “đua nhau” đầu tư vào nghiên cứu, phát triển. Doanh nghiệp nào đầu tư nhiều cho KHCN sẽ được ưu đãi về thuế, được ưu tiên phân bổ nguồn lực. “Nền khoa học công nghệ của Đất nước phải dựa trên một chính sách kinh tế minh bạch về phân bổ nguồn lực, tiếp cận thị trường… để thúc đẩy KHCN phát triển” - Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng lưu ý Bộ KHCN đã xây dựng, đề xuất và thực hiện nhiều chính sách về công tác quản lý nhà nước về KHCN, vừa qua có nhiều tiến bộ nhưng cần chú ý hơn một số vấn đề, ví dụ như:

Việc cần đổi mới mạnh mẽ hơn về cơ chế quản lý tài chính đối với KHCN theo nguyên tắc nghiên cứu khoa học là có rủi ro; khắc phục cho được tình trạng dùng tiền nghiên cứu KHCN để “tăng thu nhập” cũng như thực tế cán bộ nghiên cứu phải rất vất vả quyết toán đề tài.

Hay việc cần tăng cường thông tin khoa học nhằm kết nối, tạo mạng lưới chia sẻ kết quả nghiên cứu, ứng dụng. Bởi nếu có được mạng lưới chia sẻ sẽ tiết kiệm được rất nhiều kinh phí do không phải nghiên cứu lại từ đầu, cũng như hạn chế được tình trạng trùng lặp đề tài. Kinh phí dành cho nghiên cứu KHCN sẽ được sử dụng hiệu quả hơn.

Mặt khác cần lưu ý, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển mới tập trung vào vấn đề nghiên cứu KHCN, còn việc phổ biến, chia sẻ chưa được quan tâm đúng mức. Cần xây dựng tri thức tổng hợp trong mọi lĩnh vực vừa phổ biến tri thức khoa học công nghệ vừa để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.

Cuối cùng, nguyên Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm và Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đều nhấn mạnh, Bộ Khoa học và Công nghệ cần phát huy vai trò quan trọng là cơ quan chủ trì, nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ các chính sách đột phá để KHCN thực sự trở thành nguồn động lực cho phát triển trong thời kỳ CMCN 4.0./.