Nhìn lại quan hệ Mỹ - Trung Đông dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ Joe Biden
TCCS - Mặc dù đối mặt với nhiều thách thức, từ tác động của đại dịch COVID-19, cạnh tranh chiến lược nước lớn cho đến cuộc xung đột quân sự kéo dài giữa Israel và lực lượng Hamas, song dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ Joe Biden, quan hệ Mỹ - Trung Đông tiếp tục tiến triển tích cực. Trong giai đoạn 2021 - 2024, Mỹ không chỉ củng cố quan hệ hợp tác chặt chẽ với các đồng minh, mà còn mở rộng quan hệ với các đối tác Trung Đông trên nhiều lĩnh vực, giúp Mỹ bảo vệ lợi ích cốt lõi tại khu vực. Tuy nhiên, quan hệ Mỹ - Trung Đông vẫn tồn tại không ít hạn chế, đòi hỏi nỗ lực lớn của chính quyền kế nhiệm để duy trì vị thế và ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực.
Chuyển hướng từ “kiểm soát” sang “cạnh tranh”
Dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ J. Biden, Trung Đông tiếp tục là khu vực có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong Chiến lược An ninh quốc gia Mỹ (NSS) năm 2022, Mỹ nhấn mạnh quan điểm tránh sử dụng các kế hoạch lớn, thay vào đó là thực hiện từng bước để thúc đẩy lợi ích của Mỹ tại khu vực Trung Đông. Mỹ đặt ra một khuôn khổ mới trong chính sách đối với Trung Đông, tập trung vào việc xây dựng quan hệ đối tác, liên minh và đồng minh nhằm tăng cường khả năng răn đe, đồng thời sử dụng ngoại giao để giảm leo thang căng thẳng, giảm thiểu rủi ro xung đột mới. Khuôn khổ hợp tác Mỹ - Trung Đông trong giai đoạn mới dựa trên 5 nguyên tắc, bao gồm: 1- Tăng cường quan hệ hợp tác với các quốc gia đề cao trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, hỗ trợ bảo vệ các nước này khỏi những mối đe dọa bên ngoài trên cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia và lựa chọn độc lập của nhau; 2- Bảo đảm không để các cường quốc khu vực hay cường quốc bên ngoài gây nguy hiểm đối với hoạt động tự do hàng hải qua khu vực Trung Đông, nhất là tuyến hàng hải qua các eo biển Hormuz, eo biển Bab al Mandab, cũng như không để nước nào bị “thống trị” thông qua đe dọa, xâm lược hay gia tăng năng lực quân sự; 3- Tăng cường hợp tác, sử dụng các biện pháp ngoại giao để thúc đẩy giảm bất đồng, căng thẳng, chấm dứt những cuộc xung đột; 4- Thúc đẩy hội nhập khu vực thông qua hợp tác kinh tế, chính trị, an ninh với các đối tác, bao gồm các cấu trúc phòng thủ hàng không và hàng hải; 5- Thúc đẩy nhân quyền và các giá trị được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc.
Mỹ cũng xác định chủ trương trong quan hệ với các đối tác và vấn đề lớn tại khu vực. Đối với Iran, Mỹ tiếp tục duy trì thái độ “căng thẳng” với chính quyền Iran khi cho rằng chế độ hiện nay ở Iran chưa mang lại giá trị tốt đẹp và các quyền cơ bản cho người dân Iran, đồng thời khẳng định bằng mọi biện pháp sẽ không để Iran sở hữu vũ khí hạt nhân. Đối với Israel, Mỹ khẳng định cam kết mạnh mẽ về an ninh của Israel, đồng thời thúc đẩy cải thiện quan hệ giữa Israel và các nước khu vực. Đối với chủ nghĩa khủng bố và vấn đề nhập cư, Mỹ tăng cường kết hợp các biện pháp ngoại giao, viện trợ kinh tế, hỗ trợ an ninh cho các đối tác khu vực. Đối với cuộc xung đột Israel - Palestin, Mỹ khẳng định và thúc đẩy giải pháp “hai Nhà nước” trong giải quyết vấn đề.
Nhìn chung, chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden cơ bản vẫn duy trì mục tiêu cốt lõi của các chính quyền tiền nhiệm, bao gồm: 1- Duy trì hiện trạng khu vực, ngăn chặn sự trỗi dậy của cường quốc khu vực và cạnh tranh ảnh hưởng nước lớn; 2- Bảo đảm các lợi ích kinh tế, quân sự, an ninh chiến lược tại khu vực, trong đó ưu tiên bảo đảm sự vận hành thông suốt của tuyến đường hàng hải qua khu vực, nhất là đối với mặt hàng dầu mỏ(1); 3- Chống khủng bố và phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; 4- Thúc đẩy các giá trị tự do, dân chủ Mỹ tại khu vực. Đồng thời, trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến mới, nhất là gia tăng cạnh tranh chiến lược nước lớn(2), chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden xác định đẩy mạnh triển khai chủ trương từ “kiểm soát” sang “cạnh tranh”, giảm thiểu tối đa can dự quân sự trực tiếp tại Trung Đông. Theo đó, thay vì dành nguồn kinh phí lớn để duy trì sự kiểm soát toàn diện Trung Đông như trước đây, Mỹ chuyển hướng duy trì vị thế ảnh hưởng số 1 tại khu vực với chi phí thấp hơn, chủ yếu thông qua biện pháp phi quân sự.

Những kết quả đạt được
Thứ nhất, củng cố mạng lưới đồng minh, tập hợp lực lượng, ngăn chặn sự “trỗi dậy” của các “đối thủ” tại khu vực. Dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ J. Biden, Trung Đông tiếp tục là một trong những khu vực nhận được sự quan tâm lớn của Mỹ, nhất là thông qua các chuyến thăm cấp cao. Bên cạnh chuyến thăm của các quan chức cấp cao Mỹ, như Cố vấn An ninh quốc gia, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thống Mỹ J. Biden cũng thực hiện hai chuyến thăm tới khu vực Trung Đông, bao gồm chuyến thăm Israel, Palestin và Saudi Arabia vào tháng 7-2022 và chuyến thăm Israel vào tháng 10-2023. Thông qua các chuyến thăm, Mỹ vừa khẳng định cam kết an ninh không thay đổi đối với Israel, tiếp tục làm sâu sắc quan hệ với các nước đồng minh khu vực (Saudi Arabia, Qatar, Kuwait, Bahrain, Jordan), vừa nhấn mạnh tăng cường quan hệ với các nước, tổ chức đối tác khác. Đối với Israel, quan hệ hai bên ngày càng được củng cố và thắt chặt, góp phần quan trọng giúp Mỹ duy trì hiện diện và ảnh hưởng tại Trung Đông. Các chính quyền Israel tiếp tục coi Mỹ là đối tác ưu tiên số 1, là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại. Quan hệ trong các lĩnh vực hợp tác phát triển, kinh tế, quốc phòng, an ninh hay ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng chặt chẽ. Israel là quốc gia đi đầu ủng hộ Mỹ triển khai các sáng kiến, chiến lược hợp tác với khu vực, nhất là hợp tác trong các lĩnh vực mới có ý nghĩa chiến lược, như công nghệ mới, trí tuệ nhân tạo (AI), chất bán dẫn. Hai bên cũng duy trì quan điểm thống nhất, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, nhất là trong khuôn khổ Liên hợp quốc. Đặc biệt, kể từ khi Israel thực hiện chiến dịch quân sự tại Dải Gada vào tháng 10-2023, quan hệ hai bên được tăng cường về nhiều mặt, nhất là an ninh và viện trợ kinh tế, quân sự(3). Đối với Saudi Arabia và Thổ Nhĩ Kỳ, quan hệ đồng minh giữa hai bên được duy trì và củng cố. Saudi Arabia và Thổ Nhĩ Kỳ đều xem Mỹ là đối tác ưu tiên hàng đầu, đồng thời coi trọng hợp tác với Mỹ ở cả cấp độ song phương và đa phương. Đáng chú ý, Mỹ và Saudi Arabia đang tích cực đàm phán về một thỏa thuận hợp tác chiến lược dài hạn với cam kết mạnh mẽ hơn về quốc phòng, an ninh. Đối với các nước đồng minh ngoài Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) của Mỹ tại Trung Đông, bao gồm Qatar, Kuwait, Bahrain, Jordan, quan hệ đồng minh tiếp tục được củng cố, mở rộng, duy trì sự ủng hộ với các vấn đề chiến lược của Mỹ, nhất là hoạt động của các căn cứ quân sự tại khu vực. Dưới thời kỳ Tổng thống J. Biden, Mỹ đã nâng cấp, nâng tầm quan hệ với Qatar, các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) hay Bahrain khi lần lượt công nhận Qatar là đồng minh chủ chốt ngoài NATO vào tháng 3-2022, UAE là đối tác quốc phòng chính vào tháng 9-2024. Tháng 9-2023, nhân dịp Mỹ và Bahrain ký kết thoả thuận kinh tế và an ninh chiến lược, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Antony Blinken đánh giá thỏa thuận này như một “thỏa thuận khung” để Mỹ cùng các quốc gia Vùng Vịnh khác tham khảo, qua đó góp phần củng cố hơn nữa quan hệ song phương và bảo đảm an ninh khu vực.
Bên cạnh củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác chiến lược với các đồng minh, Mỹ cũng đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai các sáng kiến, thành lập các cơ chế hợp tác đa quốc gia, gia tăng đan xen lợi ích, tập hợp lực lượng tại khu vực, như: 1- Thành lập nhóm I2U2 (bao gồm Mỹ, Ấn Độ, Israel và UAE) nhằm giải quyết các thách thức chung, như an ninh lương thực, năng lượng sạch, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy hợp tác về công nghệ và thương mại; 2- Dẫn dắt triển khai các sáng kiến hợp tác về an ninh, kinh tế, như Sáng kiến Đối tác vì đầu tư và kết cấu hạ tầng toàn cầu, Liên minh phòng không Trung Đông (MEAD), Hội nghị thượng đỉnh Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh mở rộng (GCC+3) hay Sáng kiến Hành lang kinh tế Ấn Độ - Trung Đông - châu Âu (IMEC)4).
Thứ hai, nâng cao “sức mạnh cứng” thông qua tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh và duy trì hiện diện quân sự tại khu vực. Dưới thời kỳ Tổng thống J. Biden, Mỹ tiếp tục bảo đảm hiện diện quân sự và hoạt động của 61 căn cứ quân sự tại 10/15 nước Trung Đông với khoảng hơn 30 nghìn binh sĩ(5), góp phần quan trọng duy trì sự ổn định trong bố trí lực lượng toàn cầu của Mỹ. Vai trò quốc gia đi đầu trong hợp tác bảo đảm an ninh khu vực tiếp tục được củng cố và thúc đẩy. Các hoạt động tập trận, tác chiến chung được duy trì và tổ chức thường xuyên với một số hoạt động đáng chú ý, như cuộc tập trận hải quân tại Biển Đỏ lần đầu tiên có sự tham gia của Israel, Bahrain, UAE (tháng 11-2021) hay cuộc tập trận hải quân quốc tế (IMX 22) lần đầu tiên có sự tham gia của Israel (tháng 2-2022)(6). Mỹ và các nước Trung Đông cũng tăng cường hợp tác trong trao đổi thông tin để nâng cao năng lực phòng thủ chung. Đặc biệt, sau khi cuộc xung đột giữa Israel với lực lượng Hamas bùng phát, hợp tác quốc phòng - an ninh giữa Mỹ và các đối tác khu vực được đẩy mạnh. Với sự ủng hộ của các đối tác, Mỹ nhanh chóng thành lập Lực lượng liên quân tại Biển Đỏ từ tháng 12-2023 để gia tăng hiện diện quân sự, thực hiện các chiến dịch bảo đảm an ninh, lợi ích tại Trung Đông.
Thứ ba, làm sâu sắc hơn quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, công nghệ, tạo động lực mới cho các hoạt động xuất khẩu, phục hồi kinh tế trong nước. Trong giai đoạn 2021 - 2024, hợp tác về kinh tế, thương mại được mở rộng, là một trong những “điểm sáng” trong quan hệ Mỹ - Trung Đông. Năm 2022, tổng kim ngạch thương mại và dịch vụ giữa Mỹ và Trung Đông đạt 212 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Mỹ đạt 103,6 tỷ USD(7). Hợp tác trong các lĩnh vực tài chính, khoa học - công nghệ có nhiều bước tiến mới. Việc các quốc gia khu vực, như Saudi Arabia, UAE, Qatar, ưu tiên thanh toán giao dịch dầu mỏ bằng đồng USD, góp phần quan trọng giúp Mỹ duy trì vị thế của đồng USD như là đồng tiền chính trong thương mại toàn cầu. Bên cạnh đó, trong bối cảnh xu hướng điều chỉnh chuỗi cung ứng toàn cầu diễn ra mạnh mẽ, Trung Đông nổi lên là đối tin cậy của Mỹ trong hợp tác trên các lĩnh vực công nghệ mới, AI, sản xuất chất bán dẫn. Tháng 6-2023, Tập đoàn Công nghệ Intel (Mỹ) đầu tư dự án lớn nhất trong lịch sử thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Israel khi quyết định xây dựng nhà máy sản xuất chip trị giá 25 tỷ USD tại nước này(8). Tiếp đó, tháng 4-2024, Tập đoàn Công nghệ Microsoft (Mỹ) đã đầu tư 1,5 tỷ USD vào UAE nhằm hợp tác phát triển công nghệ AI(9).
Thứ tư, gia tăng ảnh hưởng tại khu vực thông qua tích cực thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Israel và các nước trong khu vực cũng như giải quyết cuộc xung đột Israel - Palestin. Thời gian qua, dưới sự trung gian của Mỹ, nhiều nội dung quan trọng của Thỏa thuận Abraham về tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Israel và các nước trong khu vực được triển khai toàn diện. Quan hệ giữa Israel và nhiều nước Arab được tăng cường, mở ra triển vọng tích cực về một giai đoạn mới trong quan hệ hai bên. Ảnh hưởng, vị thế của Mỹ như là một quốc gia “kiến tạo hòa bình” được nâng cao. Tháng 3-2022, Mỹ và Israel phối hợp thúc đẩy tổ chức Hội nghị quan chức cấp cao đầu tiên giữa các nước Trung Đông tham gia ký kết Hiệp định Abraham, mở ra một chương mới trong quan hệ giữa Israel và các nước khu vực. Tại hội nghị, Bộ trưởng Ngoại giao của 6 quốc gia, bao gồm: Israel, Mỹ, UAE, Bahrain, Maroc và Ai Cập, đã có cuộc gặp cấp ngoại trưởng lần đầu tiên trong lịch sử, khẳng định quan hệ giữa các nước này với Israel đang ở giai đoạn phát triển tốt đẹp. Dưới sự trung gian của Mỹ, các cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ giữa Israel và Saudi Arabia đạt nhiều kết quả tích cực. Tháng 7-2022, Saudi Arabia mở không phận cho các chuyến bay đến và đi từ Israel. Tháng 10-2022, Israel và Liban đạt được thỏa thuận mang tính lịch sử phân định ranh giới trên biển. Trong vấn đề xung đột Israel - Palestin, với cách tiếp cận “cân bằng” hơn so với chính quyền tiền nhiệm, quan hệ giữa Mỹ với Palestin và cộng đồng các quốc gia Arab được cải thiện. Nhiều quốc gia, tổ chức khu vực đánh giá cao việc chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden khẳng định Mỹ cam kết giải pháp “hai Nhà nước” với đường biên giới năm 1967 cho cuộc xung đột Israel - Palestin(10) cũng như nối lại viện trợ cho người dân Palestin thông qua Cơ quan cứu trợ và việc làm của Liên hợp quốc dành cho người tị nạn Palestin (UNRWA). Phát biểu tại cuộc họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc tháng 9-2022, Tổng thống Mỹ J. Biden tái khẳng định giải pháp “hai Nhà nước” là cách tốt nhất bảo đảm an ninh và thịnh vượng của Israel và người dân Palestin có một nhà nước chính danh.
Thứ năm, nâng cao hình ảnh cường quốc có trách nhiệm trong hỗ trợ giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống. Dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ J. Biden, hợp tác cùng ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống là một trọng tâm trong quan hệ Mỹ - Trung Đông, góp phần nâng cao hình ảnh nước lớn có trách nhiệm của Mỹ. Trong vấn đề chống khủng bố, sau thành công của chiến dịch quốc tế đánh bại Tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng tại Syria và Iraq, Mỹ tiếp tục duy trì vị thế là quốc gia đi đầu trong thúc đẩy hợp tác chống khủng bố tại Trung Đông. Trong vấn đề biến đổi khí hậu, hợp tác giữa hai bên được đẩy mạnh, mở rộng theo cả mô hình ứng phó cũng như chủ động thích ứng, hướng tới sự phát triển bền vững. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ của Mỹ, như Microsoft, Nvidia, Intel,... tăng cường hợp tác trao đổi và ứng dụng công nghệ mới với các đối tác khu vực nhằm hỗ trợ các nước tiếp cận công nghệ hiện đại trong ứng phó, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu. Đáng chú ý, tháng 7-2023, Mỹ và Israel thông báo đầu tư 70 triệu USD để hỗ trợ ứng dụng công nghệ nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu tại khu vực Trung Đông - châu Phi. Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 28 của các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP-28) do UAE tổ chức vào tháng 12-2023, Mỹ và UAE đã huy động được hơn 17 tỷ USD cam kết đầu tư vào sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu trên toàn cầu(11). Trong vấn đề xã hội, hợp tác giữa Mỹ và các đối tác khu vực đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng thúc đẩy giải quyết các cuộc khủng hoảng nhân đạo, nhất là ở các quốc gia xảy ra chiến sự. Đơn cử như, tại Iraq, Mỹ tiếp tục duy trì vị thế là đối tác quan trọng nhất của Iraq trong viện trợ nhân đạo với tổng số tiền viện trợ lên tới 3,5 tỷ USD trong giai đoạn 2014 - 2023(12). Tại Syria, trong giai đoạn 2011 - 2024, Mỹ phân bổ tới 17,8 tỷ USD hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi chiến sự thông qua các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ. Tại Yemen, Mỹ cũng dành 5,9 tỷ USD viện trợ nhân đạo để hỗ trợ người dân nước này giải quyết cuộc khủng hoảng nhân đạo trong giai đoạn 2014 - 2024(13).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc triển khai chính sách đối ngoại đối với khu vực Trung Đông của chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden vẫn tồn tại không ít hạn chế.
Một là, việc thực hiện một số mục tiêu, cam kết tranh cử trong giải quyết các “điểm nóng” khu vực chưa hoàn thành, có vấn đề rơi vào bế tắc. Chẳng hạn, mặc dù nhận được sự quan tâm lớn của Tổng thống Mỹ J. Biden, song tiến trình đàm phán giải quyết vấn đề hạt nhân Iran vẫn gặp nhiều khó khăn. Ngay từ khi lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ J. Biden đã xác định việc nối lại đàm phán vấn đề hạt nhân Iran là một trong những ưu tiên của Mỹ và chuyển cách tiếp cận từ “gia tăng áp lực tối đa” đối với Iran dưới thời kỳ chính quyền tiền nhiệm sang đẩy mạnh đàm phán nối lại Kế hoạch Hành động toàn diện chung (JCPOA) hay tìm kiếm một thỏa thuận khác thay thế JCPOA. Bất chấp sự phản đối từ các đồng minh Israel và Saudi Arabia, chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden nối lại đàm phán về khôi phục JCPOA từ tháng 11-2021. Tuy nhiên, sau 8 vòng đàm phán tại Áo, những khác biệt còn lớn giữa Mỹ và Iran xoay quanh vấn đề dỡ bỏ hoàn toàn các lệnh trừng phạt cũng như việc đưa Lực lượng vệ binh cách mạng Hồi giáo Iran (IGRC) ra khỏi danh sách tổ chức khủng bố của Mỹ khiến cuộc đàm phán bị đình trệ kể từ tháng 8-2022. Cùng với đó, sự bùng phát của cuộc xung đột giữa Israel và lực lượng Hamas khiến bất đồng giữa Mỹ và Iran gia tăng, đẩy lùi những kết quả đạt được trước đó, đưa đàm phán nối lại JCPOA rơi vào bế tắc.
Với cam kết chấm dứt chiến sự và giải quyết cuộc khủng hoảng nhân đạo tại Yemen, tình hình không những chưa được giải quyết mà ngày càng diễn biến phức tạp với hệ lụy nhân đạo nghiêm trọng. Tháng 1-2024, chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden đảo ngược quyết định trước đó vào năm 2021 khi tiếp tục coi lực lượng Huthi là tổ chức khủng bố, khiến triển vọng đàm phán hòa bình giữa lực lượng Huthi đang kiểm soát miền Nam Yemen với chính quyền được Liên hợp quốc công nhận ở miền Bắc ngày càng khó khăn. Giao tranh giữa hai bên leo thang với cường độ mạnh mẽ hơn, làm trầm trọng thêm tình trạng khủng hoảng nhân đạo tại nước này.
Hai là, nỗ lực trung gian hòa giải cuộc xung đột giữa Israel với lực lượng Hamas và đồng minh chưa đem lại kết quả như kỳ vọng, thậm chí đẩy lùi một số kết quả đạt được trong chính sách của Mỹ đối với Trung Đông. Kể từ khi cuộc xung đột giữa Israel và lực lượng Hamas bùng phát vào tháng 10-2023, Mỹ là một trong những quốc gia tích cực, đi đầu trong trung gian hòa giải, chấm dứt xung đột cũng như viện trợ nhân đạo cho người dân bị ảnh hưởng. Mỹ không chỉ gia tăng kêu gọi, mà còn gây áp lực đối với Israel và các bên liên quan để sớm đạt được thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán đều kết thúc mà không đem lại kết quả. Cuộc xung đột không những chưa được giải quyết, mà còn lan rộng sang Libban, Syria và Biển Đỏ, tiềm ẩn nguy cơ về một cuộc chiến toàn diện tại Trung Đông khi Iran và Israel liên tiếp thực hiện các cuộc tấn công đầu tiên vào lãnh thổ của nhau. Một số kết quả đạt được của chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden trong quan hệ với Trung Đông bị đẩy lùi, nhất là tiến trình đàm phán giữa Israel và Palestin hay tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Israel và các nước Arab khu vực. Việc Quốc hội Israel thông qua Luật bác bỏ sự tồn tại của Nhà nước Palestin, ngăn chặn Chính phủ Israel tham gia đàm phán về giải pháp “hai Nhà nước” vào tháng 7-2024, khiến chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden ngày càng khó khăn trong trung gian giải quyết xung đột. Đồng thời, tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Israel và các nước Arab khu vực do Mỹ thúc đẩy cũng chững lại, ngày càng khó khăn hơn. Người dân tại một số nước trong khu vực, bao gồm cả những các nước đã bình thường hóa quan hệ với Israel, như Bahrain, Jordan, tham gia nhiều cuộc tuần hành phản đối mạnh mẽ các chiến dịch quân sự mà Israel thực hiện tại Dải Gada, Bờ Tây hay miền Nam Liban. Saudi Arabia lên tiếng khẳng định sẽ không bình thường hóa quan hệ với Israel cho tới khi xung đột Israel - Palestin được giải quyết bất chấp nỗ lực trung gian của Mỹ.
Thứ ba, mức độ tin cậy chính trị mà các đối tác dành cho Mỹ suy giảm tương đối khi ngày càng nhiều nước mở rộng hợp tác với các quốc gia cạnh tranh với Mỹ, phần nào làm suy yếu tập hợp lực lượng của Mỹ tại khu vực. Việc chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden theo đuổi chủ trương giảm can dự quân sự trực tiếp tại Trung Đông khiến một số đồng minh, đối tác khu vực như Saudi Arabia, UAE hay Qatar đẩy mạnh tìm kiếm hợp tác từ Trung Quốc, Nga trong hỗ trợ nâng cao năng lực an ninh, quân sự. UAE, Saudi Arabia thậm chí đã gia nhập và tham gia sâu hơn vào các cơ chế do Trung Quốc, Nga dẫn dắt, như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS). Đặc biệt, kể từ sau khi xảy ra cuộc xung đột giữa Israel và lực lượng Hamas, việc Mỹ thực hiện chính sách hỗ trợ Israel càng khiến nhiều nước khu vực hoài nghi về cam kết an ninh của Mỹ, thúc đẩy các nước nâng cao tự chủ chiến lược, giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ trong việc bảo đảm an ninh. Ngay cả đối với Israel, những bất đồng trong vấn đề xung đột Israel - Palestin hay vấn đề hạt nhân Iran khiến quan hệ giữa chính phủ của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu và chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden gia tăng căng thẳng, bất đồng. Israel không chỉ phản đối nỗ lực quay trở lại đàm phán JCPOA của Mỹ, mà còn đẩy mạnh thực hiện chính sách đơn phương bất chấp áp lực từ Mỹ.
Triển vọng chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Trung Đông
Trong thời gian tới, việc cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump giành chiến thắng tại cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào tháng 11-2024, chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Trung Đông được dự báo sẽ có điều chỉnh mới. Theo đó, mặc dù chưa đưa ra chủ trương, chính sách cụ thể, song trên cơ sở những kết quả đạt được và hạn chế, tồn tại trong thời gian qua, chính sách của Mỹ đối với Trung Đông dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ D. Trump nhiều khả năng sẽ triển khai theo hướng kế thừa kết quả đạt được trong giai đoạn 2017 - 2021, đồng thời có những điều chỉnh phù hợp với bối cảnh mới. Chính quyền Tổng thống Mỹ D. Trump có thể sẽ tiếp tục coi Trung Đông là khu vực có vai trò quan trọng trong tổng thể chính sách đối ngoại và theo đuổi việc bảo vệ các mục tiêu cốt lõi tại Trung Đông, theo hướng:
Một là, củng cố, tạo đột phá trong quan hệ với các đồng minh, đối tác chủ chốt khu vực, nhất là với Israel, Saudi Arabia, UAE và Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC), trên cơ sở hạn chế khác biệt, coi trọng giải quyết các bất đồng, ưu tiên đáp ứng các mối quan tâm, nhu cầu của các nước, tăng cường trao đổi thông tin về các chính sách liên quan đến các vấn đề Iran, Yemen, Liban và Syria.

Hai là, đẩy mạnh giải quyết các vấn đề khu vực, nhất là cuộc xung đột giữa Israel với lực lượng Hamas cũng như tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Israel và các nước trong khu vực, góp phần khẳng định vị thế dẫn dắt giải quyết những bất đồng, thúc đẩy an ninh, an toàn tại khu vực. Trong quan hệ với Iran, Mỹ nhiều khả năng sẽ theo đuổi chính sách cứng rắn, đẩy mạnh can dự để ngăn chặn Iran làm giàu uranium và phát triển vũ khí hạt nhân, nhất là trong bối cảnh JCPOA sẽ hết hiệu lực vào năm 2025 và Iran không còn chịu các ràng buộc trong khuôn khổ thỏa thuận.
Ba là, duy trì chiến lược quân sự - đối ngoại ít tốn kém hơn, tiếp tục nhất quán chủ trương giảm can dự trực tiếp, chú trọng nâng cao năng lực quân sự cho các đối tác khu vực.
Bốn là, tăng cường, làm sâu sắc hơn nữa hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, năng lượng, công nghệ, đồng thời mở rộng hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng và an ninh nhằm nâng cao ảnh hưởng, vị thế trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược nước lớn gia tăng.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về tình hình quan hệ Mỹ - Trung Đông dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ J. Biden, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm tham chiếu đối với Việt Nam trong quan hệ với Mỹ cũng như Trung Đông, đó là: 1- Tiếp tục triển khai nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện; kiên trì chính sách quốc phòng “bốn không”(14); ủng hộ việc tôn trọng các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phản đối các hành động đơn phương, chính trị cường quyền, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; tránh bị cuốn vào cạnh tranh chiến lược nước lớn, bảo vệ cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; 2- Coi trọng quan hệ với Trung Đông trong tổng thể chính sách đối ngoại, ưu tiên hợp tác trên các lĩnh vực mà các nước trong khu vực có thế mạnh, như năng lượng tái tạo, thương mại, công nghệ số, AI, qua đó thu hút thêm nguồn lực phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; 3- Tăng cường hợp tác với Mỹ trong vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước hay vấn đề xã hội, tranh thủ sự quan tâm và nguồn tài trợ, viện trợ của Mỹ, bổ sung nguồn lực giúp Việt Nam thích ứng hiệu quả với các thách thức này./.
-----------------------------
(1) Bảo vệ an ninh năng lượng, đồng nghĩa với việc bảo đảm an ninh kinh tế, chính trị chiến lược của Mỹ. Dù là nước xuất khẩu năng lượng ròng, song việc duy trì sự vận hành thông suốt của nền kinh tế thế giới với thị trường năng lượng ổn định cũng là một lợi ích quan trọng của Mỹ. Không chỉ vậy, việc bảo đảm sự vận hành ổn định của thị trường dầu mỏ nhờ nguồn cung từ Trung Đông cũng góp phần giúp các đồng minh, đối tác của Mỹ, nhất là các quốc gia châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia
(2) Trong Chiến lược An ninh quốc gia (NSS) năm 2017 và Chiến lược Quốc phòng Mỹ năm 2018, Mỹ chính thức xác định thách thức trung tâm tới an ninh và thịnh vượng của Mỹ là sự “trỗi dậy” của các cường quốc, như Trung Quốc, Nga thông qua cuộc cạnh tranh chiến lược lâu dài
(3) Theo đó, Tổng thống Mỹ và Quốc hội Mỹ nhất quán quan điểm bảo vệ lợi ích của Israel, sẵn sàng phủ quyết các nghị quyết quốc tế bất lợi đối với Israel; đồng thời, thông qua khoản viện trợ quân sự khẩn cấp cho Israel trị giá 13 tỷ USD vào tháng 4-2024 (bên cạnh khoản viện trợ 3,8 tỷ USD hằng năm); khẳng định chính sách bảo đảm an ninh cho Israel trong bất kỳ hoàn cảnh nào nhân chuyến thăm của Thủ tướng Israel B. Netanyahu tới Mỹ vào tháng 7-2024
(4) Ngày 9-9-2023, bên lề Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) tại Ấn Độ, Tổng thống Mỹ J. Biden công bố kế hoạch xây dựng hành lang thương mại quốc tế Ấn Độ, Saudi Arabia, UAE, Jordan, Israel và Liên minh châu Âu (EU). Đây là sáng kiến liên kết cả đường sắt, cảng, mạng lưới điện và đường ống khí hydro
(5) Mỹ có 13 căn cứ quân sự tại Thổ Nhĩ Kỳ, Bahrain: 12; Saudi Arabia: 10; Kuwait: 10, Oman: 6; Syria: 4; UAE: 3; Jordan: 2; Qatar: 1. Tại Iraq, Mỹ còn khoảng 2.500 binh sĩ (năm 2024). Tại Syria, Mỹ còn khoảng 900 binh sĩ (năm 2024). Xem: Brian Katulis: “Treading Cautiously on Shifting Sands: An Assessment of Bai-đờn’s Middle East Policy Approach, 2021-2023” (Tạm dịch: “Bước đi thận trọng trên bãi cát lún: Đánh giá về cách tiếp cận chính sách Trung Đông của Bai-đờn, 2021 - 2023”), Middle East Institute, ngày 26-9-2023, https://www.mei.edu/publications/treading-cautiously-shifting-sands-assessment-Bai-đờns-middle-east-policy-approach-2021-2023
(6) IMX là sự kiện được tổ chức hằng năm, là cuộc tập trận lớn nhất tại Trung Đông, có sự tham gia của các quốc gia chưa bình thường hóa quan hệ với Israel, như Saudi Arabia và Oman
(7) Xem: Middle East/North Africa (MENA): “Middle East Trade & Investment Summary” (Tạm dịch: Tóm tắt thương mại và đầu tư của khu vực Trung Đông), Office of the United States Trade Representative, 2022, https://ustr.gov/countries-regions/europe-middle-east/middle-east/north-africa
(8) Xem: Steven Scheer “Intel to invest $25 billion in Israel factory in record deal, Netanyahu says” (Tạm dịch: Intel đầu tư 25 tỷ USD vào nhà máy ở Israel với thỏa thuận kỷ lục), Reuters, ngày 26-12-2023, https://www.reuters.com/technology/intel-build-25-bln-factory-largest-foreign-investment-israel-netanyahu-2023-06-18/
(9) Xem: “Microsoft đầu tư 1,5 tỷ USD vào G42 của Abu Dhabi để tăng tốc phát triển AI và mở rộng toàn cầu”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 17-4-2024, https://www.vietnamplus.vn/microsoft-dau-tu-15-ty-usd-vao-g42-cua-abu-dhabi-de-tang-toc-phat-trien-ai-va-mo-rong-toan-cau-post940622.vnp
(10) Tổng thống Mỹ Gi. Bai-đơn khẳng định tại cuộc gặp với Tổng thống Palestin Mahmud Abbas nhân chuyến thăm Palestin vào tháng 7-2022
(11) Xem: Leah Douglas - Simon Jessop: “COP28: US-UAE climate-friendly farming effort grows to $17 bln” (Tạm dịch: Mỹ - UAE nỗ lực huy động hơn 17 tỷ USD vào sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu), Reuters, ngày 9-12-2023, https://www.reuters.com/world/middle-east/cop28-us-uae-climate-friendly-farming-effort-grows-17-bln-2023-12-08/
(12) Xem: “U.S.-Iraq Higher Coordinating Committee Fact Sheet on U.S. Foreign Assistance to Iraq” (Tạm dịch: Tờ thông tin của Ủy ban điều phối cấp cao Mỹ - I-rắc về viện trợ nước ngoài của Mỹ cho I-rắc), Reliefweb, ngày 21-4-2024, https://reliefweb.int/report/iraq/us-iraq-higher-coordinating-committee-fact-sheet-us-foreign-assistance-iraq
(13) Xem: “Yemen” (Tạm dịch: Yemen), United States Agency for International Development (USAID), 2024, https://www.usaid.gov/humanitarian-assistance/yemen
(14) 1- Không tham gia liên minh quân sự; 2- Không liên kết với nước này để chống nước kia; 3- Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; 4- Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
- Vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân: Thực trạng và một số khuyến nghị
- Quốc hội tiếp tục kế thừa, đổi mới và phát triển hoạt động lập hiến trong giai đoạn hiện nay
- Cơ chế hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam
- Ngoại thương Việt Nam: Vị thế mới sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Ngoại giao đa phương đưa đất nước hội nhập toàn diện và sâu rộng trong thời đại mới
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên