Cơ chế và giải pháp bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
TCCS - Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, là cơ sở bảo đảm hàng đầu để giữ vững bản chất khoa học, cách mạng và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý thời gian qua còn tồn tại không ít bất cập, hạn chế, cần có cơ chế và giải pháp để bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc này.
Cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý - một số vấn đề đặt ra hiện nay
Hơn 91 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội XI của Đảng thông qua, nhấn mạnh: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(1). Với vai trò là nguyên tắc trực tiếp ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức và lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, một mặt, bảo đảm phát huy tính tích cực và sáng tạo của mọi tổ chức đảng, đảng viên; mặt khác, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng.
Qua các kỳ Đại hội Đảng, các văn kiện, nghị quyết của Đảng đều đặc biệt nhấn mạnh về vai trò quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Các bản Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 cũng đều nhấn mạnh việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VII khẳng định: “Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(2). Đến nhiệm kỳ Đại hội VIII, cụ thể là Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) và Hội nghị Trung ương 7 bàn về công tác xây dựng Đảng và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh tới nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo và quản lý, trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Nhờ đó, kỷ cương, kỷ luật trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước được giữ vững. Những chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước đều được tổ chức thảo luận rộng rãi, lấy ý kiến của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, các cấp quản lý từ cơ sở; chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến lớn trong hoạt động. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng được quy định trong Điều lệ Đảng đã cơ bản bảo đảm tính bao quát, toàn diện, đầy đủ và phù hợp…; các nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tuân thủ và thực hiện nghiêm túc”(3).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng thẳng thắn đánh giá: “Nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện chưa nghiêm, thậm chí có nơi còn vi phạm nghiêm trọng… Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong tổ chức và hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng có nội dung chưa được quy định cụ thể phù hợp với tình hình thực tế, nhất là về mối quan hệ, trách nhiệm giữa tập thể, cá nhân và người đứng đầu, nên khó xác định trách nhiệm của cá nhân khi xảy ra sai phạm”(4). Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ một số điểm nghẽn, vướng mắc khi áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, cụ thể:
Một là, thiếu sự hài hòa và khoa học giữa hai mặt “dân chủ” và “tập trung” trong hoạt động lãnh đạo, quản lý.
“Dân chủ” và “tập trung” có quan hệ biện chứng, chế ước, ràng buộc lẫn nhau, bổ khuyết cho nhau khi được kết hợp hài hòa để tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc, góp phần tạo thành sức mạnh của tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị. Tuyệt đối hóa dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, vô tổ chức, vô kỷ luật; ngược lại, tuyệt đối hóa tập trung dẫn đến quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, hạn chế sức sáng tạo. Ở không ít cơ quan, đơn vị, phát huy dân chủ không đi đôi với tuân thủ kỷ luật dẫn đến tình trạng kỷ cương lỏng lẻo, nói và làm tùy tiện, chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa nghiêm. Có nơi, lãnh đạo cấp trên có thiếu sót, sai lầm, nhưng cấp dưới thường ngại hoặc không dám đấu tranh, không dám nói khác, làm khác ý kiến người đứng đầu khiến cho dân chủ bị vô hiệu hoá; thậm chí, trong tập thể còn tình trạng “chia bè kéo cánh” để nói xấu, đả kích lẫn nhau, làm mất uy tín, gây nghi ngờ, chia rẽ nội bộ. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo” rơi vào hình thức, còn “cá nhân phụ trách” trở thành người nắm quyền quyết định tất cả. Người đứng đầu lợi dụng quyền lực của mình để quyết định các vấn đề về công tác cán bộ… theo ý đồ vụ lợi cá nhân, nhưng vẫn “đúng quy trình” và không sợ bị xử lý trách nhiệm, dẫn đến hiện tượng trớ trêu là “cá nhân lãnh đạo, tập thể chịu trách nhiệm”.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng và đặc biệt từ đầu năm 2021 cho đến nay, nhiều vụ, việc vi phạm được Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận, quyết định kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật, đều có liên quan trực tiếp đến vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Tình trạng này diễn ra ở nhiều loại hình tổ chức đảng, trong nhiều lĩnh vực, liên quan trực tiếp đến cả các cán bộ cấp cao ở Trung ương và địa phương. Điển hình là các vụ, việc vi phạm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Dương nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương nhiệm kỳ 2016 - 2021 (5); tương tự là vi phạm của Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Đảng ủy cơ quan Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Hà Nội giai đoạn 2016 - 2019(6). Các cá nhân, tổ chức này đều đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, gây hậu quả nghiêm trọng, làm thiệt hại tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong dư luận xã hội và gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Hai là, sự đồng thuận của số đông nhiều khi chưa phản ánh đúng bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thiểu số phục tùng đa số là một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ và được quy định tại Điều 9, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam(7). Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn tồn tại không ít trường hợp, quyết định của số đông lại chưa phản ánh đúng bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là, khi quyết định của số đông không có đầy đủ thông tin, hoặc bị nhiễu loạn thông tin chi phối(8). Hiện tượng này không phải là phổ biến nhưng vẫn xảy ra tại một số cơ quan, đơn vị, khi người đứng đầu cần lấy ý kiến của tập thể để hợp thức hóa quy trình ra quyết định nên cố tình không cung cấp đầy đủ thông tin, buộc số đông quyết định trong tình trạng không chắc chắn, phụ thuộc vào ý chí dẫn dắt của người chủ trì. Thiếu thông tin là môi trường thuận lợi cho thiểu số có thể vụ lợi thao túng, gây nhiễu loạn, lèo lái dư luận, khiến số đông không thể đưa ra các quyết định chính xác. Trong trường hợp này, các cuộc họp lấy ý kiến thường thiếu tính phản biện, có xu hướng “xuôi chiều” do bị thiểu số hướng lái.
Trong các quy định của Đảng hiện hành đều có những nội dung để ngăn chặn tình trạng này diễn ra, như quyền được thông tin của đảng viên và quần chúng nhân dân, đi kèm với đó là trách nhiệm phải thông tin của người đứng đầu, cơ quan, tổ chức và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan khi thực hiện các quy trình để đưa ra quyết định đòi hỏi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ... Tuy nhiên, những quy định này có lúc, có nơi thực hiện chưa nghiêm túc, nhất là khi người đứng đầu lợi dụng nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số”, trong khi tập thể thì làm việc qua loa, “hùa theo số đông”, đưa ra biểu quyết với tâm lý “yên tâm” rằng, quyết định nếu có sai lầm thì người đứng đầu, cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm, còn cá nhân sẽ an toàn, “núp bóng” trong đám đông.
Như vậy, việc áp dụng méo mó nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên nhân làm cho không ít quyết định được đưa ra sai lầm dù dựa trên biểu quyết của tập thể, gây tổn hại lợi ích của đơn vị, địa phương, là căn nguyên nuôi dưỡng chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bè phái, tham nhũng, tiêu cực. Thực tế cho thấy, khi người đứng đầu áp đặt chủ kiến của mình với tập thể, vận dụng sai, thậm chí xem nhẹ, buông lỏng nguyên tắc tập trung dân chủ; trong khi tập thể cấp ủy, ban thường vụ lại không giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình, thì dân chủ tại những cơ quan, tập thể này dễ bị cá nhân mượn danh, lợi dụng. Điểm lại các vụ, việc vi phạm lớn được phát hiện và xử lý kỷ luật trong thời gian vừa qua thấy rằng, nhiều ban thường vụ cấp ủy đã không thực hiện đầy đủ chế độ sinh hoạt đảng và không tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
Ba là, vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ một cách máy móc, thiếu ghi nhận, ủng hộ ý kiến xây dựng của thiểu số.
Có tình trạng tập thể ra quyết định nhưng bỏ qua ý kiến thuộc về thiểu số, ngay cả khi đó có thể là những ý tưởng tốt, giúp tháo gỡ những vướng mắc, mang đến sự phát triển. Không thể phủ nhận, việc tiếp thu những ý kiến khác biệt của cá nhân và thí điểm thực hiện sẽ tiềm ẩn, chứa đựng sự rủi ro, phức tạp, khó khăn nhất định, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có bản lĩnh, tính quyết đoán và dám đương đầu để tạo ra bứt phá. Tuy nhiên, khi những người đứng đầu không dám bước ra khỏi “vùng an toàn”, phớt lờ, xem nhẹ, thậm chí trù dập ý kiến khác biệt của thiểu số thì có thể sẽ bỏ qua những cơ hội phát triển của tập thể, đơn vị. Mặt khác, nếu áp dụng nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số” một cách máy móc sẽ rất dễ dẫn đến làm nhụt chí của cán bộ, thậm chí làm “thui chột” cán bộ tâm huyết, có tư duy đổi mới sáng tạo.
Bốn là, ở một số nơi, việc thực hiện quyền bảo lưu ý kiến của đảng viên còn mang tính hình thức, qua loa, chiếu lệ.
Việc đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được bảo lưu góp phần bảo đảm cho đảng viên được thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về tổ chức chính trị và sinh hoạt đảng, tạo điều kiện cho đảng viên và tổ chức đảng thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều lệ Đảng đã quy định việc đảng viên được quyền bảo lưu ý kiến của mình. Ý kiến bảo lưu đó sẽ được báo cáo với các cấp ủy cấp trên. Trong khi chờ cấp trên xem xét, đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của tổ chức đảng, không được truyền bá những quan điểm, ý kiến trái với nghị quyết của Đảng.
Tuy hiện nay chưa có một quy định riêng hướng dẫn việc thực hiện quyền bảo lưu ý kiến của đảng viên, nhưng đảng viên vẫn có quyền nêu ý kiến của mình trong khuôn khổ tổ chức đảng, theo những quy định và nguyên tắc của Đảng. Vì chưa có cơ chế để người đưa ra ý kiến thuộc về thiểu số có thể theo dõi và kiểm tra ý kiến của mình đã được báo cáo đến đâu, đến ai và được tiếp thu giải quyết như thế nào, nên việc thực hiện quyền bảo lưu ý kiến là vấn đề cần được bàn thảo kỹ lưỡng, để vừa thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa bảo đảm quyền lợi chính trị của đảng viên.
Trên thực tế, có không ít cấp ủy đảng và người đứng đầu thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; thậm chí, có nơi, cán bộ lãnh đạo còn gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, làm mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Ở những cơ quan, tổ chức này, việc thực hiện đúng và đủ quyền bảo lưu ý kiến của đảng viên thường bị xem nhẹ hoặc nếu có thì cũng làm qua loa, hình thức, chiếu lệ; thậm chí, người đưa ra ý kiến khác với số đông còn bị trù dập, cô lập. Lợi dụng quy định những ý kiến thuộc về thiểu số phải được thảo luận, đánh giá ở chi bộ hoặc cấp ủy nơi đó, sau mới được báo cáo lên cơ quan lãnh đạo cấp trên, nên khi ý kiến có “động chạm” trực tiếp đến quyền lợi, lợi ích của người đứng đầu hoặc “phe cánh” trong tổ chức thì việc người có ý kiến thuộc về thiểu số bị vô hiệu hóa rất dễ xảy ra…
Cơ chế và giải pháp bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
Xây dựng cơ chế thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý có thể được hiểu là “xây dựng một hệ thống đồng bộ các quy chế, biện pháp - các phương tiện, các điều kiện thực hiện, bảo đảm dân chủ, vừa mở rộng và phát huy dân chủ, vừa tăng cường được vai trò và hiệu lực của tập trung dân chủ trong mọi lĩnh vực của quản lý, ở mọi cấp độ quản lý. Cơ chế đó phải tỏ rõ tác dụng đối với hiệu quả công việc, nâng cao tính chủ động, tích cực của con người, quyền lực, uy tín của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”(9).
Đó là cơ chế bảo đảm xử lý hài hòa mối quan hệ biện chứng giữa “dân chủ” và “tập trung”, giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương. Mọi cán bộ, đảng viên đều có quyền tham gia vào việc quyết định công việc của Đảng; có quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức. Việc phát triển và mở rộng dân chủ trong Đảng phải luôn đi đôi với tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật.
Cơ chế bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý phải được xây dựng trên cơ sở gắn việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện phân cấp, phân quyền, chống “tha hóa” quyền lực; có cơ chế để các tổ chức đảng cơ sở, địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất của Trung ương. Trong cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phải vừa đề cao vai trò của người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, vừa tăng cường kiểm soát quyền lực nhằm phòng ngừa sự lộng quyền dẫn tới độc đoán, chuyên quyền hoặc lạm dụng quyền lực được giao.
Quyền bảo lưu ý kiến của đảng viên cần được nghiên cứu thấu đáo, cụ thể hóa hơn để dễ thực hiện. Trước hết, quy trình xem xét, đánh giá ý kiến thuộc về thiểu số của cấp ủy, tổ chức đảng phải được tiến hành một cách chặt chẽ, nghiêm túc, nếu cần thì phải huy động sự phối hợp của các cấp có thẩm quyền, các cơ quan chuyên môn. Ngoài ra, quy trình báo cáo lên cấp ủy cấp trên cũng cần được đơn giản hóa các bước, bởi nếu quy trình xin ý kiến chỉ đạo quá phức tạp, qua nhiều bước, nhiều khâu, mất nhiều thời gian thì ý kiến thuộc về thiểu số sẽ khó được đưa ra thảo luận ở cấp cao hơn và không được tổ chức thực hiện. Trong bối cảnh thực tiễn biến động nhanh chóng như hiện nay, cũng cần nghiên cứu cơ chế trao quyền cho người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị triển khai dưới dạng thí điểm ý tưởng thuộc về thiểu số, nếu xét thấy ý kiến đó có tính khả thi, mang lại lợi ích thiết thực cho tập thể.
Cơ chế bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ phải gắn với cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đây là một nhiệm vụ được Đại hội XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh(10). Thực chất, việc làm này là để gắn trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị với việc bảo vệ, cổ vũ những ý tưởng thuộc về thiểu số, nhưng mang tính đột phá, đổi mới sáng tạo của cán bộ, đảng viên; đồng thời, phát huy dân chủ tối đa để cán bộ, đảng viên có dũng khí dám nói, dám đề xuất các ý tưởng của mình, cho dù ý tưởng đó có đi ngược lại với nhận thức của số đông, bởi “đã từng có không ít cán bộ có tư duy đột phá nhưng lại phải chịu “búa rìu” của tập thể, chịu áp lực chỉ trích, thậm chí phải trả giá cho sinh mệnh chính trị của chính mình do không có cơ chế bảo vệ; các ý tưởng đột phá nhanh chóng bị rơi vào quên lãng”(11).
Cơ chế bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ phải đồng thời là cơ chế bảo đảm thông tin được thông suốt, kịp thời, khách quan từ nhiều chiều (từ trên xuống, từ dưới lên và từ dư luận) nhằm giúp cho việc đưa ra các quyết định sẽ hạn chế được tối đa những khiếm khuyết, sai lầm. Pháp luật phải quy định rõ, đầy đủ hơn quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức trong hoạt động của cơ quan, đơn vị; quy định cụ thể, chi tiết hơn một số quyền, như quy định về những việc bắt buộc phải công khai trước toàn thể cán bộ, công chức, viên chức. Quyền được biết của cán bộ, công chức, viên chức phải được thực hiện một cách nghiêm túc, nền nếp, phù hợp với quyền tiếp cận thông tin mà Hiến pháp quy định. Điều này giúp nâng cao quyền kiểm tra, giám sát của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với hoạt động của cơ quan nhà nước.
Thông tin cần phải được kiểm soát, định hướng, bởi số đông hay dư luận xã hội không phải lúc nào cũng đại diện cho lẽ phải, cho chân lý. Vai trò của tập thể là vô cùng quan trọng, nhưng cần phải phân định rõ tập thể không phải là đám đông bất kỳ, mà phải là tập hợp của nhiều cá nhân có trách nhiệm, những người luôn cùng nhìn về một hướng, đặt lợi ích chung của cơ quan, đơn vị lên trên hết, trước hết, lấy chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc làm nền tảng trong mọi hoạt động công tác của mình.
Do đó, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp:
Thứ nhất, xem xét, nghiên cứu, bổ sung quy định, chỉ thị, hướng dẫn về nguyên tắc tập trung dân chủ và việc áp dụng nguyên tắc này trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Thể chế hóa cụ thể, chi tiết hơn việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý của Nhà nước; tiếp tục rà soát lại các quy định, quy chế, tìm ra những điểm bất hợp lý, không còn phù hợp trong thực tiễn thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ để bổ sung, hoàn thiện, giúp cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ được thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ, khắc phục những bất cập, hạn chế trong nhận thức và hoạt động, như nghiên cứu cụ thể hóa hơn quyền bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số, đơn giản hóa quy trình báo cáo lên cấp cao hơn những ý kiến thuộc về thiểu số; xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung…
Thứ hai, tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đặc biệt, lựa chọn, bố trí người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có trình độ, năng lực giỏi, thật sự là tấm gương tiêu biểu về bản lĩnh chính trị và đạo đức, lối sống ở cơ quan, đơn vị. Đây là một trong những yếu tố quyết định liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, quản lý, bởi người đứng đầu luôn là nhân tố quan trọng, chi phối hiệu quả mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị cần tăng cường chất lượng công tác cán bộ một cách toàn diện, từ phát hiện, tuyển chọn, đánh giá, đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, bổ nhiệm, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ. Các khâu của công tác cán bộ có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau, tác động, thúc đẩy lẫn nhau; thực hiện tốt khâu này sẽ là tiền đề và cơ sở để thực hiện tốt các khâu khác và ngược lại, nếu một khâu nào đó thực hiện chưa tốt, không đúng quy trình sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các khâu khác và đến kết quả chung của công tác cán bộ. Làm tốt những điều đó, sẽ xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đơn vị có đủ phẩm chất, năng lực và bản lĩnh chính trị, vừa thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, vừa thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. Vì vậy, trong quá trình thực hiện công tác cán bộ phải kết hợp chặt chẽ và đồng bộ tất cả các khâu, không được coi nhẹ hoặc bỏ qua một khâu nào.
Thứ ba, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong các cơ quan lãnh đạo đảng, cơ quan quản lý nhà nước. Công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, nên phải được định danh, định tính, định lượng cụ thể. Người kiểm tra, giám sát phải nắm vững bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ, mẫu mực về phẩm chất, trình độ chuyên môn, trong sáng, chí công vô tư và có bản lĩnh chính trị vững vàng. Mục đích kiểm tra không chỉ để phát hiện những vi phạm và sai lầm, khuyết điểm, mà quan trọng hơn chính là kịp thời phòng ngừa, uốn nắn những lệch lạc, chấn chỉnh những biểu hiện sai trái, giúp thực hiện hiệu quả và phát huy tốt hơn tác dụng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Cần hướng vào kiểm tra tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên khi dấu hiệu vi phạm nguyên tắc mới manh nha, để giáo dục, ngăn chặn, không để vụ, việc “bung ra” mới kiểm tra, nhất là ở những nơi có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chú trọng xem xét việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết, xử lý vi phạm, nhất là những hành vi tham nhũng, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, gây chia rẽ, bè phái, làm suy yếu khối đoàn kết, thống nhất tại các cơ quan lãnh đạo Đảng, cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chế tài xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên, cấp ủy, cơ quan, đơn vị vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Nghiêm trị những sai phạm và công bố công khai kết quả xử lý của cơ quan pháp luật, danh tính những người vi phạm. Bên cạnh biện pháp răn đe, xử lý những hành vi vi phạm, cũng cần có hình thức khuyến khích, động viên kịp thời những cá nhân, tập thể thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý./.
-------------------
(1) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 5
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 54, tr. 165
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 267 - 268
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 273
(5) http://baochinhphu.vn/Hoat-dong-dia-phuong/Uy-ban-Kiem-tra-Trung-uong-de-nghi-ky-luat-Bi-thu-Binh-Duong/434959.vgp, ngày 16-6-2021
(6) https://vtv.vn/chinh-tri/thi-hanh-ky-luat-canh-cao-dang-uy-co-quan-so-ke-hoach-va-dau-tu-tp-ha-noi-nhiem-ky-2015-2020-2021080419201528.htm, ngày 4-8-2021
(7) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011), Sđd, tr. 18
(8) Tùng Lâm: “Nghịch lý của “số đông”?”, Tạp chí Cộng sản, số 911 (9-2018), tr. 96
(9) Nguyễn Tiến Phồn: Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 208
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 42
(11) Dương Mộng Huyền - Nhóm tác giả: “Xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung - Một số vấn đề lý luận”, Tạp chí Cộng sản, số 948 (8-2020), tr. 53 - 54
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển