Trong công cuộc đổi mới, cùng với sự thay đổi toàn diện và sâu sắc về kinh tế - xã hội, Đảng ta đã từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội bằng cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị; bằng việc giới thiệu đảng viên vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị; bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục; bằng việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, luật pháp của Nhà nước đối với các tổ chức đảng và đảng viên; thông qua hoạt động của tổ chức đảng và mỗi đảng viên.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và người đứng đầu; khắc phục khuynh hướng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện, làm thay; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đặt trong nhiệm vụ tổng thể đổi mới và chỉnh đốn Đảng, phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế, cải cách hành chính. Vấn đề mấu chốt là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước các cấp; từ đó, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành và mở rộng dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng có ý nghĩa quyết định.

Trong những năm qua, Đảng bộ Tuyên Quang luôn xác định đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Các Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, lần thứ XII, lần thứ XIII đều đề cập nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (2005 - 2010), tiếp tục chỉ đạo tăng cường thực hiện đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng. Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã tập trung chỉ đạo triển khai các nội dung, chương trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với phương châm là thực hiện đồng bộ, bài bản, nhất quán, từ nhận thức tới hành động. Cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, gương mẫu thực hiện để trở thành nền nếp. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, Tỉnh ủy ban hành các quy chế, quy định của tỉnh theo hướng: Phân định rõ nội dung, nhiệm vụ; phân cấp triệt để, toàn diện và phân quyền cụ thể, rõ ràng. Đồng thời, tích cực đổi mới phương pháp, lề lối làm việc của các cấp ủy. Nội dung đổi mới tập trung vào một số lĩnh vực chủ yếu sau:

Việc triển khai nghị quyết được đổi mới, bảo đảm thiết thực, phân sâu đối tượng, quy định liều lượng nội dung cho từng đối tượng; bố trí thời gian quán triệt nghị quyết hợp lý theo hướng tăng thời gian cho cấp cơ sở.

Một là, đổi mới phong cách, phương pháp và lề lối làm việc của các cấp ủy theo hướng khoa học, kế hoạch hóa. Để “chương trình hóa, kế hoạch hóa” toàn bộ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ toàn khóa, bên cạnh việc ban hành các quy chế, quy định theo chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, Tỉnh ủy đã tập trung cả hệ thống chính trị để xây dựng chương trình công tác toàn khóa chi tiết, cụ thể, đồng thời xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình theo từng tháng, từng quý của cả nhiệm kỳ. Hằng năm, cấp ủy nghe và cho ý kiến chương trình công tác của địa phương, các ngành. Hoạt động của cấp ủy, các cấp, các ngành bám sát chương trình, theo kế hoạch. Do đó, các cơ quan, đơn vị chủ động hoàn toàn trong việc bố trí công việc; giảm họp nhưng chất lượng các cuộc họp của cấp ủy, của toàn hệ thống chính trị được nâng lên.

Tỉnh ủy Tuyên Quang rất coi trọng đổi mới việc ra nghị quyết, theo hướng lựa chọn những vấn đề thật sự cần thiết để ban hành nghị quyết. Quy trình ra nghị quyết bảo đảm tính khoa học, tranh thủ trí tuệ rộng rãi của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chuyên môn sâu của các ban, ngành chức năng, bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng, trong hệ thống chính trị. Những vấn đề khó, vấn đề mới, vấn đề đang thu hút sự quan tâm của cán bộ, đảng viên và đông đảo nhân dân được đưa ra trưng cầu ý kiến thông qua chi bộ, Mặt trận và các đoàn thể. Nghị quyết ban hành sớm, tập trung vào năm đầu nhiệm kỳ; các năm tiếp theo tổ chức kiểm tra, kiểm điểm, sơ kết việc thực hiện nghị quyết.

Việc triển khai nghị quyết được đổi mới, bảo đảm thiết thực, phân sâu đối tượng, quy định liều lượng nội dung cho từng đối tượng; bố trí thời gian quán triệt nghị quyết hợp lý theo hướng tăng thời gian cho cấp cơ sở.

Để thống nhất quy trình và nâng cao chất lượng, hiệu quả việc ban hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng bộ tỉnh và triển khai nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Tỉnh ủy đã chỉ đạo nghiên cứu hai đề tài khoa học: Quy trình và phương pháp xây dựng, ban hành nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy tỉnh, và Đề án đổi mới phương thức quán triệt, học tập và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với chính quyền. Lãnh đạo chính quyền là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ các hoạt động lãnh đạo của Đảng. Ngay từ năm 2006, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã bàn thảo với Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban Cán sự Đảng ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Cán sự Đảng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh, để ban hành Quy định về nội dung, phương pháp, lề lối làm việc của Ban Thường vụ Tỉnh ủy đối với chính quyền, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tỉnh.

Quy định phân định rõ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy trình Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cho ý kiến về những định hướng lớn trong chiến lược và quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lớn và những cân đối chủ yếu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh mỗi nhiệm kỳ và hằng năm.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho ý kiến về các nội dung có tầm vĩ mô của tỉnh như kế hoạch bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp; chương trình, nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh; đề án thành lập mới, nhập, chia và điều chỉnh địa giới hành chính huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế của tỉnh; phương hướng, mục tiêu, kế hoạch về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh dài hạn, hằng năm; cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh; các công trình xây dựng cơ bản, các dự án liên quan đến quốc phòng - an ninh; các chủ trương về thu, chi và cân đối ngân sách địa phương; các hoạt động lớn về văn hóa - xã hội; thực hiện chương trình cải cách hành chính của tỉnh; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; định hướng hoạt động của các cơ quan tư pháp về công tác kiểm sát, xét xử v.v.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy ủy quyền để Thường trực Tỉnh ủy cho ý kiến về những nội dung: các chương trình, đề án, dự án lớn của các ngành, các lĩnh vực; những dự án đầu tư không sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước phát sinh trong kỳ kế hoạch hằng năm; các khoản chi đột xuất từ nguồn ngân sách, các khoản chi từ nguồn dự phòng ngân sách, vượt thu ngân sách và nguồn vốn huy động hợp pháp khác; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, tuyên truyền, thể dục, thể thao có quy mô lớn; về thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng - an ninh đột xuất.

Ngoài những lĩnh vực cấp ủy cho ý kiến, chính quyền và các cơ quan tư pháp chủ động hoàn toàn trong quản lý, điều hành, xử lý công việc theo quy định của luật pháp. Quy định trên đã được thực hiện nền nếp ở Tuyên Quang, bảo đảm được sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp ủy, đồng thời phát huy tính chủ động, tính chịu trách nhiệm của chính quyền, giảm được rất nhiều các cuộc họp không cần thiết. Cấp ủy không sa vào các vấn đề cụ thể thuộc chức năng, nhiệm vụ của các ngành chuyên môn; đồng thời phát huy vai trò của những người đứng đầu các cơ quan nhà nước. Theo đó, cũng “bắt buộc” Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh phải đổi mới phương pháp làm việc và đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính.

Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nằm trong hệ thống chính trị, hoạt động theo điều lệ của tổ chức, với phương pháp chủ yếu là tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục. Xuất phát từ yêu cầu phát huy vai trò, vị trí quan trọng của Mặt trận và các đoàn thể trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang đã xây dựng và ban hành Quy định về nội dung và phương pháp làm việc của cấp ủy tỉnh đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Qua đó, xác định những nội dung Ban Thường vụ Tỉnh ủy trình xin ý kiến Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, những nội dung Ban Thường vụ cho ý kiến, những nội dung Ban Thường vụ ủy quyền để Thường trực Tỉnh ủy cho ý kiến.

Hằng năm, dựa trên kế hoạch của toàn Đảng bộ, Thường trực Tỉnh ủy cho ý kiến Chương trình công tác của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; hằng quý, giao ban nghe Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể báo cáo kết quả hoạt động, phản ánh tình hình nhân dân và kiến nghị với các cơ quan chính quyền. Ban Thường vụ Tỉnh ủy định hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, định hướng và giới thiệu nhân sự chủ chốt để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể bầu tại đại hội.

Cấp ủy chú trọng xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hoạt động đúng định hướng chính trị, đúng pháp luật và hiệu quả. Một trong những biện pháp quan trọng là lập Hội đồng công tác quần chúng. Đây là cơ quan tư vấn, phản biện đối với những chủ trương của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nước liên quan trực tiếp tới đời sống nhân dân hoặc những chủ trương về công tác vận động quần chúng; đồng thời Hội đồng công tác quần chúng cũng đóng vai trò làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Thông qua Hội đồng, cấp ủy nghe được ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân và vận động nhân dân tích cực thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Với những đổi mới này, vừa bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ, trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, vừa phát huy được vai trò chủ động, tính năng động, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể, đồng thời cũng tránh được tình trạng can thiệp quá sâu, “làm thay” hoặc “khoán trắng” công việc cho Mặt trận và các đoàn thể.

Bốn là, tập trung cho cơ sở. Cơ sở là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nơi trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan, có tác động quyết định tới đời sống, sản xuất của người dân. Do đó, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng có “chuyển tải”, “hiện thực hóa” được hay không phần lớn phụ thuộc vào năng lực, trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị tại cơ sở. Xuất phát từ nhận thức về yêu cầu tất yếu khách quan phải tập trung cho cơ sở, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã dày công khảo sát thực tiễn, xây dựng và ban hành Nghị quyết về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nhằm đạt mục tiêu khẳng định và giữ vững vai trò lãnh đạo, vai trò hạt nhân chính trị của Đảng ở cơ sở.

Hằng năm, cấp tỉnh duyệt chương trình công tác của các huyện, thị xã, các sở, ban, ngành; cấp huyện duyệt chương trình công tác của các xã, thị trấn. Thông qua đó đã thực hiện được việc kế hoạch hóa, khoa học hóa chương trình làm việc của các cấp trên phạm vi toàn tỉnh.

Để bảo đảm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, từ năm 2006, ngoài các cuộc giao ban khối Đảng, đoàn thể, nội chính như trước đây, cấp ủy đã tổ chức giao ban hai khối, khối kinh tế và khối các huyện, thị xã. Qua đó, kịp thời lãnh đạo bảo đảm tiến độ, chất lượng thực hiện các chương trình, kế hoạch kinh tế trọng điểm của tỉnh.

Tỉnh ủy rất chú trọng công tác cán bộ cấp cơ sở, đã chỉ đạo rà soát lại toàn bộ đội ngũ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ cho cán bộ cơ sở; ban hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho cán bộ cơ sở yên tâm công tác, đồng thời thu hút cán bộ có trình độ đại học về công tác tại các xã, phường, thị trấn.

Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn chặt với cải cách hành chính và phân cấp mạnh. Tỉnh ủy đã lãnh đạo thực hiện cải cách hành chính giai đoạn hai trong phạm vi toàn tỉnh; trọng tâm là 2 lĩnh vực bộc lộ nhiều hạn chế và có nhiều khó khăn nhất. Đó là, cải cách tổ chức bộ máy, hiện đại hóa nền hành chính, và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Chỉ đạo rà soát chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, tổ chức bộ máy và biên chế của các cơ quan, đơn vị để điều chỉnh những bất hợp lý, trùng lắp. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, luân chuyển nhằm cấu trúc lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức toàn tỉnh.

Tỉnh triển khai phân cấp trong phạm vi toàn tỉnh với phương châm phân cấp toàn diện, triệt để trên cả 3 phương diện: cán bộ, quản lý và ngân sách; phân cấp “dọc” cho địa phương và phân cấp “ngang” cho các ngành. Thực hiện phân cấp cực kỳ có ý nghĩa, tạo điều kiện cho các cấp, các ngành chủ động cao trong công việc, đồng thời nâng cao trách nhiệm, năng lực của người đứng đầu các địa phương, ban, ngành. Tuy nhiên, đối với Tuyên Quang, để phân cấp một cách triệt để, toàn diện là không đơn giản, vì phải thực hiện đồng bộ theo luật pháp và các quy định của Đảng, trên cơ sở đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành của địa phương còn hạn chế cả về chất lượng cũng như số lượng. Do đó, đòi hỏi phải có lộ trình cụ thể với bước đi phù hợp, bảo đảm chắc chắn và hiệu quả.

Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác cán bộ. Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, có phân công, phân cấp hợp lý. Tôn trọng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức, người đứng đầu tổ chức trong công tác cán bộ. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng và ban hành quy định về phân cấp quản lý cán bộ, xác định rõ nội dung, nguyên tắc, trách nhiệm, quyền hạn quản lý cán bộ; quy định những chức danh cán bộ do cấp ủy các cấp, đảng đoàn, ban cán sự đảng, thủ trưởng các cơ quan quản lý.

Trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ chung, các cấp ủy, các ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng các cơ quan xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh cán bộ thuộc quyền quản lý. Tỉnh ủy đã chỉ đạo tổng rà soát thực trạng cán bộ, công chức của hệ thống chính trị các cấp trong toàn tỉnh, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm cấu trúc lại đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh, thực hiện mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ do Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra.

Cấp ủy tỉnh tiếp tục đổi mới và quy trình hóa toàn bộ quá trình đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đề bạt và thực hiện chính sách cán bộ theo hướng thực hiện công khai, dân chủ, minh bạch, nâng cao chất lượng, bảo đảm thực chất trong từng khâu nói trên. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ. Lấy hiệu quả công tác thực tế và tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, quần chúng làm thước đo chủ yếu để đánh giá, tuyển chọn và sử dụng cán bộ. Trong xây dựng chiến lược và quy hoạch cán bộ, chú trọng tới đội ngũ cán bộ có năng lực, cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ. Mở rộng dân chủ, tôn trọng ý kiến của các đảng đoàn, ban cán sự đảng, cấp ủy và lãnh đạo cơ quan trong việc giới thiệu nhân sự chủ chốt của các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Bảy là, đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra của Đảng giữa Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy với các ban đảng Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh ủy, Đảng ủy Công an tỉnh, Thanh tra tỉnh và các ban cán sự đảng: Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh để tạo ra sự phối hợp đồng bộ giữa Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy với các cơ quan liên quan, tránh sự trùng dẫm, lấn sân và bảo đảm sự nhất quán trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và giữ gìn kỷ luật của Đảng. Đồng thời, kết hợp các kênh thông tin: dư luận xã hội; Văn phòng Tỉnh ủy và các ban đảng Tỉnh ủy cung cấp; kết quả giám sát của Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân tỉnh; qua báo cáo của chính quyền tỉnh để kịp thời nắm và xử lý thông tin bảo đảm hiệu quả.

Nội dung lãnh đạo của cấp ủy toàn diện, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm; sự quản lý, điều hành của chính quyền ngày càng chủ động và có hiệu quả hơn. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể khá năng động, sáng tạo; phong trào thi đua của các tầng lớp nhân dân sôi nổi, rộng khắp.

Đối với Tuyên Quang, thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã tạo động lực to lớn, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh ở địa phương.

Trong những năm qua, kinh tế của tỉnh phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP là 12,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông, lâm nghiệp. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Các chính sách xã hội được thực hiện có hiệu quả, công tác xóa đói, giảm nghèo, xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm đạt kết quả vượt trội. Giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao từng bước được củng cố và nâng cao chất lượng. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được củng cố giữ vững. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc ngày càng được cải thiện. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị thu nhiều kết quả. Nội dung lãnh đạo của cấp ủy toàn diện, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm; sự quản lý, điều hành của chính quyền ngày càng chủ động và có hiệu quả hơn. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể khá năng động, sáng tạo; phong trào thi đua của các tầng lớp nhân dân sôi nổi, rộng khắp. Không khí dân chủ, cởi mở đã tạo ra sức hấp dẫn trong sinh hoạt đảng và trong các hoạt động xã hội, đồng thời kỷ cương, nền nếp được tôn trọng, giữ vững.

Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, song đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng là một quá trình liên tục. Tuyên Quang còn phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn vai trò, thẩm quyền, mối quan hệ của Đảng đoàn, ban cán sự đảng với tổ chức đảng và lãnh đạo cơ quan; việc lãnh đạo của cấp ủy tỉnh với các cơ quan nhà nước ở địa phương khi không còn các ban cán sự đảng; về thủ tục hành chính đảng; về nâng cao năng lực thẩm định, đề xuất của cán bộ, chuyên viên các ban tham mưu của cấp ủy trong điều kiện Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO và ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế thế giới; quy trình, phương pháp ban hành, nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; việc giải quyết mâu thuẫn giữa chủ trương phân cấp mạnh cho cấp dưới trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành với trình độ, năng lực và điều kiện làm việc của các cấp ủy cấp dưới, nhất là cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, yếu kém.