Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông

Nguyễn Thị Nghĩa Thứ trưởng, Bộ Giáo dục và Đào tạo
23:38, ngày 19-12-2017

TCCSĐT - Trong những năm qua, giáo dục Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể về quy mô, chất lượng giáo dục, góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, trong đó có giáo dục phổ thông.

Chất lượng giáo dục phổ thông là mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục phổ thông được quy định tại Luật Giáo dục, đó là: “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Trong những năm qua, ngành giáo dục đã triển khai nhiều giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông và đã đạt được các mục tiêu đề ra:

Một là, nâng cao dân trí

Nâng cao dân trí được xác định là mục tiêu hàng đầu trong phát triển giáo dục của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nước ta đang phát triển nền kinh tế tri thức cùng với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Mục tiêu nâng cao dân trí trước hết được phản ánh qua chất lượng giáo dục phẩm chất và năng lực học sinh, đồng thời qua các phương diện: thực hiện phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; công bằng xã hội trong giáo dục và hiệu quả giáo dục.

Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm tăng cơ hội tiếp cận giáo dục cho người dân. Hệ thống mạng lưới trường, lớp giáo dục phổ thông được phát triển rộng khắp toàn quốc. Từ năm học 2009 - 2010 đến năm học 2015 - 2016, hệ thống trường học trong cả nước tăng đều qua các năm, trong đó trường tiểu học tăng 0,54%, trường trung học cơ sở tăng 2,5% và trung học phổ thông tăng 5,8%. Trường tiểu học, trung học cơ sở được phân bố ở tất cả các xã, cụm xã và huyện trong cả nước để thuận tiện cho việc học tập của học sinh (1).

Mặc dù còn có sự khác nhau trong tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi giữa các vùng, miền và dân tộc, nhưng tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi ở cấp học phổ cập giáo dục từ năm học 2010 đến nay ngày càng cao. Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010.

Trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, Việt Nam đã bảo đảm yếu tố công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục, bảo đảm những đối tượng học sinh khác nhau đều có cơ hội được tiếp cận các dịch vụ giáo dục có chất lượng.

Cơ hội tiếp cận giáo dục của học sinh dân tộc thiểu số ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhìn chung còn thấp so với yêu cầu; chất lượng, cơ cấu đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý trong các nhà trường còn bất cập; chế độ chính sách cho người học được cải thiện rất nhiều nhưng còn chưa đáp ứng được yêu cầu; cơ sở vật chất đã từng bước được cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển về quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là một số trường chuyên biệt vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Ngành giáo dục đã chỉ đạo phối hợp tổ chức các lớp học tình thương cho trẻ em lang thang cơ nhỡ, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Bộ đội biên phòng, Hội liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên và các tổ chức đoàn thể, xã hội khác triển khai nhiều hoạt động tạo điều kiện cho những trẻ em khó khăn được học và học được các chương trình giáo dục phổ thông với các mức độ khác nhau. Các địa phương đã thực hiện tốt công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật và các chế độ, chính sách ưu đãi đối với học sinh diện chính sách xã hội, quan tâm tạo cơ hội học tập cho học sinh khuyết tật.

Mặc dù đã rất nỗ lực trong việc thực hiện chính sách phổ cập giáo dục nhưng vẫn còn nhiều em trong độ tuổi (đặc biệt trong độ tuổi trung học cơ sở) thuộc gia đình nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn di cư từ nông thôn lên đô thị để tìm kiếm việc làm, ít có cơ hội tiếp cận giáo dục (2). Việc triển khai giáo dục trẻ khuyết tật ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn: nhận thức của bố mẹ hạn chế, không muốn kiểm tra, thừa nhận con mình là người khuyết tật để được hưởng chính sách về giáo dục đối với người khuyết tật theo quy định; cơ sở vật chất, thiết bị, học liệu cho giáo dục trẻ khuyết tật còn hạn chế; nhiều trẻ khuyết tật chưa có nhiều cơ hội đến trường dẫn tới thiếu kiến thức, thiếu kỹ năng lao động, ít cơ hội tìm việc làm và hòa nhập xã hội.

Kết quả phân tích số liệu từ “Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ, thời điểm 01-4-2014” của Tổng cục Thống kê cho thấy, không có sự chênh lệch lớn về giới trong độ tuổi học sinh tiểu học. Với nỗ lực trong việc huy động trẻ đến trường, đặc biệt là trẻ em gái, Việt Nam đã đạt Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) số 3 về tiếp cận giáo dục giữa trẻ em nam và nữ ở bậc tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Hai là, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài

Về giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh trung học

Giáo dục phổ thông có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho đất nước qua việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực cần thiết. Hiện tại, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hoàn thiện dự thảo Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, làm cơ sở để các địa phương triển khai thực hiện; đồng thời đưa hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông thành một thành tố quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông mới.

Tuy nhiên, do chương trình giáo dục phổ thông hiện hành chưa tạo thuận lợi cho công tác định hướng nghề nghiệp nên hiệu quả giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng còn hạn chế; nhận thức của học sinh, cha mẹ học sinh và xã hội về hướng nghiệp còn chưa đúng mức; cán bộ tư vấn hướng nghiệp trong các trường trung học hiện nay còn thiếu, hạn chế năng lực và các kỹ năng tư vấn hướng nghiệp cho học sinh. Cơ chế phối hợp giữa các cơ sở giáo dục trung học với các doanh nghiệp, cơ sở đào tạo nghề chưa hiệu quả.

Chú trọng công tác phát hiện, đào tạo bồi dưỡng nhân tài, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tưởng phê duyệt và triển khai Đề án Phát triển hệ thống trường trung học phổ thông chuyên giai đoạn 2010 - 2020. Sau 5 năm triển khai, các trường chuyên đã có sự chuyển biến đáng kể, cơ sở vật chất ngày càng khang trang, hiện đại, chất lượng giáo dục ngày một nâng cao, công tác phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi có sự tiến bộ rõ nét, hiệu quả giáo dục đạt mức cao. Hiện nay mỗi tỉnh, thành phố đều có ít nhất 01 trường chuyên.

Tuy nhiên, việc triển khai xây dựng trường chuyên đạt chuẩn quốc gia ở một số địa phương chưa được triển khai mạnh; vẫn còn nhiều trường chuyên chưa đủ các điều kiện tối thiểu như phòng học bộ môn, nhà đa năng; một số trường còn hạn chế trong việc phát huy vai trò đi đầu trong việc đổi mới; việc huy động các nguồn lực hợp tác quốc tế, liên kết với các cơ sở giáo dục nước ngoài; năng lực ngoại ngữ, nhất là năng lực tiếng Anh của một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh các trường chuyên còn hạn chế.

Ba là, giáo dục phẩm chất học sinh

Phẩm chất học sinh được đánh giá bằng những nhận xét của giáo viên và xếp loại hạnh kiểm hằng năm (3). Hầu hết học sinh đã xác định đúng lý tưởng sống; mong muốn học giỏi để lập nghiệp; nhiều học sinh có tinh thần khởi nghiệp ngay từ khi còn học ở trường trung học; nhiều tấm gương học sinh dám hy sinh quyền lợi của bản thân, kể cả mạng sống của mình, vì bạn bè và cộng đồng được dư luận đánh giá cao.

Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu chủ động, linh hoạt, tự tin trong hoạt động học tập; một tỷ lệ nhỏ học sinh có những thiếu hụt về nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức. Nguyên nhân của những hạn chế trên một phần do sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh và một phần do những mặt trái của kinh tế thị trường tác động tới xã hội nói chung và tới thế hệ trẻ nói riêng.

Bốn là, phát triển năng lực học sinh

Thứ nhất, rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.

Rà soát và quy hoạch lại mạng lưới trường, lớp gắn với các điều kiện bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Khắc phục tình trạng mạng lưới trường lớp nhỏ lẻ, manh mún ở một số địa phương. Ưu tiên dành quỹ đất, ngân sách cho các các dự án đầu tư xây dựng trường, lớp, đặc biệt biệt ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số, khu công nghiệp, khu đông dân cư.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp.

Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp (trong đó chú trọng bồi dưỡng nâng cao năng lực, đặc biệt là năng lực quản trị nhà trường cho cán bộ quản lý giáo dục các cấp; xây dựng kế hoạch và chính sách tuyển dụng giáo viên phù hợp, khắc phục tình trạng thừa, thiếu cục bộ; đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để bảo đảm đủ số lượng, chất lượng và cân đối về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo giáo viên; nâng cao chất lượng đầu vào các trường sư phạm; xây dựng lại chương trình đào tạo sư phạm theo hướng phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; đẩy mạnh đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông gắn với định hướng nghề nghiệp và phân luồng trong giáo dục phổ thông.

Đẩy nhanh tiến độ và bảo đảm chất lượng thực hiện Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu về phát triển phẩm chất và năng lực người học trên cơ sở bảo đảm tính khả thi và hiệu quả triển khai. Triển khai biên soạn sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo chương trình mới.

Đổi mới nội dung, hình thức giáo dục hướng nghiệp gắn với thực tiễn sản xuất, kinh doanh tại địa phương; xây dựng cơ chế thu hút sự tham gia của cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp trong xây dựng chương trình, tài liệu và đánh giá kết quả giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông. Tiếp tục triển khai thí điểm mô hình giáo dục nhà trường gắn với thực tiễn sản xuất kinh doanh ở địa phương, mô hình phối hợp giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với các trường trung học trong giáo dục hướng nghiệp.

Đổi mới mạnh mẽ phương pháp, hình thức dạy học đồng bộ với đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện theo hướng phát triển năng lực học sinh, tiếp cận với chương trình giáo dục phổ thông mới.

Thứ tư, nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học và trình độ đào tạo.

Bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, giảng viên ngoại ngữ, đặc biệt là đội ngũ giáo viên phổ thông đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình ngoại ngữ hệ 10 năm. Tiếp tục hoàn thiện chương trình, sách giáo khoa, hệ thống học liệu ngoại ngữ trực tiếp và trực tuyến đáp ứng mục tiêu đào tạo chung. Tiếp tục đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá năng lực ngoại ngữ của học sinh theo chuẩn đầu ra ngay trong quá trình và theo kết quả từng giai đoạn giáo dục, đào tạo.

Thứ năm, hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý giáo dục.

Tập trung xây dựng Luật Giáo dục sửa đổi, bổ sung; xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, chuẩn mực đạo đức, văn hóa nhà trường phù hợp các cấp/bậc học; ngăn chặn tình trạng bạo lực học đường. Thực hiện kiểm tra, xử lý; rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục. Thực hiện có hiệu quả việc phân công, phân cấp, ủy quyền, nâng cao trách nhiệm thực thi nhiệm vụ, trách nhiệm giải trình và chất lượng công tác phối hợp trong xử lý công việc. Tăng cường giao quyền chủ động cho các địa phương trong quản lý giáo dục; các cơ sở giáo dục và giáo viên trong việc xây dựng, thực hiện kế hoạch giáo dục.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về giáo dục và đào tạo. Xây dựng và ban hành cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật. Triển khai có hiệu quả Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 theo Quyết định số 117/QĐ-TTg, ngày 25-01-2017, của Thủ tướng Chính phủ.

Xây dựng các phần mềm thống nhất hỗ trợ công tác quản lý, quản trị nhà trường; xây dựng và đưa vào sử dụng thống nhất toàn ngành cơ sở dữ liệu về giáo dục phổ thông cung cấp thông tin quản lý giáo dục đầy đủ, tin cậy, kịp thời cho các cơ quan quản lý giáo dục và cơ quan hữu quan.

Thứ sáu, đổi mới công tác đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục phổ thông.

Tăng quyền chủ động của nhà trường trong việc thực hiện kế hoạch giáo dục đi đôi với việc nâng cao năng lực quản trị nhà trường của đội ngũ cán bộ quản lý. Đổi mới cơ chế quản lý các cơ sở giáo dục phổ thông theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền, trước hết là việc giao quyền chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục của nhà trường. Đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong trường học gắn với trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục. Xây dựng nghị định quản lý các cơ sở phổ thông trình Chính phủ. Kiện toàn hội đồng trường, bảo đảm các điều kiện để Hội đồng trường thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định. Công khai thông tin về các điều kiện bảo đảm chất lượng, các hoạt động cơ bản của nhà trường. Tiếp tục thực hiện quy chế công khai theo Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân.

Thứ bảy, hội nhập quốc tế trong giáo dục phổ thông.

Rà soát, điều chỉnh bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác và đào tạo quốc tế. Triển khai Nghị định thay thế Nghị định số 73/2012/NĐ-CP quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục sau khi Chính phủ ban hành. Tiếp tục thí điểm áp dụng các mô hình giáo dục tiên tiến, chương trình giảng dạy, sách giáo khoa, kiểm tra, đánh giá học sinh trong cả nước.

Thứ tám, tăng cường các nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo; tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm chất lượng các hoạt động giáo dục phổ thông.

Triển khai thực hiện nghiêm túc Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn thi hành luật; cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng hiệu quả, bố trí hợp lý cho chi đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; tăng cường hiệu quả, đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư công.

Hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách để huy động, thu hút các nguồn tài trợ, viện trợ, các dự án của các tổ chức, cá nhân đầu tư cho giáo dục; tổ chức quản lý và khai thác có hiệu quả các nguồn đầu tư để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học; chỉ đạo các địa phương thực hiện có hiệu quả xây dựng nhà công vụ, nhà bán trú cho giáo viên, học sinh để phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Tiếp tục thực hiện Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2014 - 2015, lộ trình đến năm 2020. Tổ chức thực hiện Đề án bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục giáo dục phổ thông sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tiếp tục đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, nghiên cứu.

Xác định thực trạng và nhu cầu về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cho từng địa phương, từng vùng miền; xây dựng kế hoạch tổng thể triển khai công tác cơ sở vật chất, thiết bị trường học đồng bộ với lộ trình đổi mới chương trình giáo dục phổ thông; xây dựng các chương trình, đề án cơ sở vật chất và thiết bị dạy học để xây dựng trường chuẩn quốc gia và các yếu tố bảo đảm chất lượng giáo dục, trong đó ưu tiên các địa phương khó khăn, các tỉnh miền núi, vùng dân tộc.

Thứ chín, tăng cường công tác khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục.

Tiếp tục thực hiện công tác khảo thí theo hướng đánh giá năng lực người học, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong khảo thí, bảo đảm công bằng, khách quan, chính xác, tin cậy, minh bạch, tạo thuận lợi tối đa cho người dạy và người học. Đẩy mạnh kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục phổ thông; tăng cường công tác tự đánh giá, đánh giá ngoài, cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục./.

-------------------------------------------------------------------

(1). Năm học 2016 - 2017, tổng số có 27.598 trường phổ thông, trong đó có 15.052 trường tiểu học, 10.155 trường trung học cơ sở và 2.391 trường trung học phổ thông
(2) Điều tra Quốc gia về Lao động trẻ em năm 2012 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiến hành cho thấy, trong số 18,3 triệu trẻ em trong độ tuổi từ 5 đến 17, có 10% trẻ em nhóm 6 - 17 tuổi không đi học, trong số đó có 4,7% chưa từng đi học; khoảng 1/6 (2,83 triệu em) đang tham gia hoạt động kinh tế, trong đó có 41,6% số trẻ em tham gia hoạt động kinh tế không đi học
(3). Năm học 2016 - 2017, kết quả đánh giá các phẩm chất của học sinh tiểu học ở mức tốt và đạt là trên 90%. Kết quả xết loại hạnh kiểm ở cấp trung học cơ sở là: 81,63%Tốt, 15,88 % Khá, 2,35% Trung bình, 0,13% Yếu ; ở cấp trung học phổ thông là:81,27% Tốt, 15,38% Khá, 2,91% Trung bình, 0,43% Yếu