Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là những quyền cơ bản của con người. Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Trong một thế giới đang toàn cầu hoá hiện nay, quyền con người ở mỗi quốc gia, không kể hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị - xã hội, kinh tế và văn hoá đều có những giá trị chung giống nhau, không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau, đó là tính phổ cập của quyền con người. Tuy nhiên, quyền con người còn mang tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hoá và tôn giáo. Chính từ những đặc điểm này mà trên thế giới tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người.

Trong khi cộng đồng quốc tế thừa nhận cả hai đặc tính của quyền con người, thì một số quốc gia (các nước tư bản phát triển, đứng đầu là Mỹ) lại phủ nhận tính đặc thù của quyền con người, đề cao tự do cá nhân, rêu rao học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Họ tự cho mình là người bảo vệ nhân quyền, lợi dụng các vấn đề về “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”, “dân tộc” xuyên tạc, vu cáo các nước khác vi phạm nhân quyền, ngang nhiên can thiệp vào công việc nội bộ, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ các quốc gia có chủ quyền. Trong thế giới văn minh ngày nay vẫn còn tình trạng người bóc lột người, phân biệt chủng tộc, kỳ thị dân tộc, tôn giáo, buôn bán nô lệ và còn tồn tại một vài chế độ độc tài đang thi hành chính sách bài ngoại cực đoan, kìm hãm sự phát triển tự do cá nhân, thủ tiêu các quyền cơ bản của con người. Do đó, cuộc đấu tranh vì quyền con người gắn với bảo vệ quyền dân tộc tự quyết vẫn là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt. Quyền con người vẫn là khát vọng cháy bỏng của cả nhân loại.

Từng là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân và phải trả bằng xương, máu trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân Việt Nam hiểu hơn bao giờ hết giá trị của độc lập, tự do. Đảng và Nhà nước Việt Nam trước sau như một, kiên trì quan điểm giải quyết vấn đề quyền con người trên nguyên tắc nhân quyền không được cao hơn chủ quyền, bảo đảm quyền con người phải căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế - xã hội và truyền thống văn hoá, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền.

Quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hoá dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi.

Trong khi đánh giá cao giá trị cải tạo xã hội, giải phóng con người của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chủ nghĩa Mác – Lê-nin cũng chỉ ra những hạn chế của các cuộc cách mạng đó. Các nhà tư tưởng mác-xít cho rằng, những giá trị về quyền con người do các cuộc cách mạng dân chủ tư sản đem lại còn mang nặng tính hình thức, thực sự nó chỉ đem lại quyền tự do cho giai cấp tư sản, một bộ phận rất nhỏ trong xã hội, đại bộ phận quần chúng lao động chưa được giải phóng, chủ nghĩa tư bản duy trì sự bất bình đẳng về quyền sở hữu, do đó sự bất bình đẳng về năng lực cá nhân là điều không thể tránh khỏi. C. Mác cho rằng, con người vừa là sản phẩm của xã hội vừa là sản phẩm của tự nhiên, vì vậy khi xem xét vấn đề quyền con người cần phải đặt vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể và quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá (do chế độ kinh tế đó quyết định). Theo Ph. Ăng-ghen, quyền con người không phải tự nhiên mà có, đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, của các cuộc cách mạng xã hội; bình đẳng là một sản phẩm lịch sử, không có quyền bình đẳng trừu tượng, muốn có bình đẳng thực sự thì việc xoá bỏ đặc quyền giai cấp là chưa đủ, mà phải xoá bỏ bản thân giai cấp.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin và chủ nghĩa yêu nước chân chính. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quyền con người là sự kết hợp giữa chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa với truyền thống yêu nước, thương nòi của dân tộc Việt Nam, giữa lý luận mác-xít và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm trên được Người thể hiện bằng bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, ngay trong ngày khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” (Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945). Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới năm 1945, không chỉ nhằm công bố với thế giới về sự ra đời của một quốc gia độc lập, có chủ quyền mà còn là một bản tuyên ngôn về quyền con người của Việt Nam và khẳng định nhân dân Việt Nam quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng để bảo vệ giá trị thiêng liêng đó. Tuyên ngôn Độc lập và Cánh mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh phá tan hệ thống thuộc địa thế giới, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ giành độc lập dân tộc từ châu Á, châu Phi đến Mỹ La-tinh thời kỳ giữa thế kỷ XX. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 còn là một đóng góp lớn lao vào tư tưởng nhân quyền của nhân loại. Lần đầu tiên, các quyền tự do cá nhân được mở rộng thành quyền dân tộc, đó là độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết. Những đóng góp đó vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Kế thừa và phát huy giá trị của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống văn hoá dân tộc, quan điểm nhất quán và xuyên suốt về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng và Nhà nước ta khẳng định, con người và quyền con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã hội của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.

Nội dung cơ bản của các quan điểm và chính sách đó là:

1. Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyền con người là thành quả và khát vọng chung của nhân loại. Đảng chỉ rõ: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”(1). Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng chỉ đạo “ Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính về phẩm giá con người”(2) .

2. Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản, nhân quyền không được cao hơn chủ quyền. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch, xuyên suốt. Đảng ta cho rằng, sự nghiệp giải phóng con người, đưa lại các quyền tự do cá nhân gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, cải tạo xã hội cũ. Bài học “nước mất - nhà tan” đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam được đúc rút qua lịch sử trên 4000 năm dựng nước và giữ nước. Qua kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, Đảng ta khẳng định rằng, chỉ ở một nước độc lập thực sự, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người mới được thực thi đầy đủ và có điều kiện để đảm bảo một cách chắc chắn. Đấu tranh chống các thế lực thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc cũng là nhằm giành quyền tự do cho cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chủ quyền quốc gia hay quyền dân tộc tự quyết và quyền con người tuy là những phạm trù khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết và thống nhất với nhau. Thực thi quyền con người phải dựa trên cơ sở ưu tiên bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, chủ quyền quốc gia. Nếu dân tộc không được độc lập, chủ quyền quốc gia không được xác lập thì không có quyền con người.

3. Giải quyết các vấn đề cụ thể về quyền con người phải kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù. Thừa nhận tính phổ biến của quyền con người với những giá trị chung của nhân loại, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh khi giải quyết vấn đề nhân quyền phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ngoài những giá trị phổ biến, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia tuỳ theo chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hoá dân tộc, tôn giáo có những giá trị riêng không ai có thể xâm phạm được (nếu nó không đi ngược lại những giá trị chung của nền văn minh nhân loại). Nhà nước ta tôn trọng những giá trị đã được quốc tế thừa nhận, như: Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau; trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hoá và tôn giáo. Đảng chỉ đạo: “Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, từng bước thể chế hoá nội dung các quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và với tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi” (3). Tính phổ biến của quyền con người chỉ có thể được đảm bảo chắc chắn khi tính đến những đặc thù khác nhau ở mỗi khu vực, trong những điều kiện cụ thể về lịch sử, văn hoá, tôn giáo, chế độ chính trị, chế độ kinh tế.

4. Quyền con người mang tính giai cấp. Lịch sử đấu tranh giải phóng con người, cải tạo xã hội trong xã hội có giai cấp là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp. Quyền con người là thành quả của các cuộc đấu tranh đó. Vì vậy, quyền con người không thể không mang tính giai cấp. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thủ tiêu chế độ người bóc lột người là nhằm đem lại quyền lợi cho toàn thể nhân dân lao động. Những người cộng sản không đấu tranh cho riêng giai cấp của mình mà đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng nhân loại. Nhân dân Việt Nam thừa nhận những người cộng sản Việt Nam không chỉ là đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân mà còn là đại biểu trung thành lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Sau khi Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, cục diện thế giới đã có những thay đổi căn bản, chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, nhưng các mâu thuẫn lớn của thời đại, trong đó mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại và đang diễn ra rất gay gắt. Chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ từ bỏ bản chất hiếu chiến, xâm lược và mưu đồ thủ tiêu phong trào cộng sản và công nhân thế giới, ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Do đó, cuộc đấu tranh vì quyền con người vẫn là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt ở cấp độ toàn cầu. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào những người cộng sản không được phép lơ là, mất cảnh giác trước những luận điệu sai trái về quyền con người của chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế.

5. Quyền con người ở Việt Nam được thể hiện trong quyền và nghĩa vụ công dân, thực hiện quyền con người gắn liền với quá trình thực hiện dân chủ hoá xã hội. Cương lĩnh của Đảng chỉ rõ, dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thể hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng hình thức dân chủ trực tiếp; dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hoá bằng pháp luật và được pháp luật đảm bảo. Quyền con người là sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ công dân, giữa quyền, lợi ích cá nhân với quyền và lợi ích cộng đồng. Các quyền và lợi ích của công dân nước ta luôn được gắn với nhau, được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Công dân Việt Nam được thực hiện các quyền tự do cá nhân mà pháp luật không cấm, nhưng quyền tự do cá nhân không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và cộng đồng, không được thực hiện các hành vi gây nguy hại đến an ninh quốc gia và trật tự luật pháp xã hội chủ nghĩa.

6. Chúng ta chủ trương giải quyết vấn đề quyền con người bằng đối thoại hoà bình và mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và luận điệu lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ:“Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam”(4).

Dựa trên quan điểm bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách đảm bảo quyền con người và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước ta tiến dần đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã hội. Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như: Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (1979), xoá bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc (1966), về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội (1966), về các quyền dân sự (1966), về quyền trẻ em; Nghị định thư bổ sung Công ước Giơ-ne-vơ về bảo vệ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế… và tham gia các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) với tư cách là thành viên của tổ chức này. Ở trong nước, các chính sách kinh tế - xã hội đã đem lại nhiều quyền lợi và điều kiện để người dân thực hiện các quyền con người, đặc biệt là thành quả trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, văn hoá, tự do báo chí, tự do tôn giáo, chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách an sinh xã hội, an ninh con người… được quốc tế thừa nhận.

Hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Chúng không thừa nhận tính đặc thù của quyền con người, cho rằng quyền con người chỉ là giá trị chung không phụ thuộc vào pháp luật hay đạo đức của bất kỳ xã hội nào và phải được áp dụng với những chuẩn mực và phương thức đồng nhất ở mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử và văn hoá. Chúng rêu rao quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, tuyệt đối hoá quyền tự do cá nhân, đặc quyền của cá nhân cao hơn chủ quyền của cộng đồng dân tộc. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình” (chủ yếu trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo) của chúng.

Trước âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, các cấp, các ngành cần tăng cường chỉ đạo và thực hiện các biện pháp sau:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thấm nhuần sâu sắc lập trường, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề nhân quyền, nâng cao ý thức cảnh giác trước luận điệu sai trái và âm mưu của các thế lực thù địch và các nước bảo trợ chúng lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để chống phá ta.

- Đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các chương trình và chính sách phát triển vùng, trong đó ưu tiên phát triển vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới và vùng căn cứ cách mạng gắn với chương trình xoá đói, giảm nghèo, chính sách với người có công và chính sách dân tộc, tôn giáo; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam có đủ 5 đức tính đã được Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) xác định; chiến lược phát triển nguồn nhân lực và giáo dục - đào tạo; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân…, làm cho mọi người Việt Nam đều được hưởng thành quả của công cuộc đổi mới. Đồng thời phải khắc phục những hạn chế về quyền con người trong truyền thống và hiện tại nhằm hoàn thiện quyền con người ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Tăng cường hợp tác quốc tế trong giải quyết vấn đề quyền con người, tiếp tục xây dựng hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế. Các cơ quan tham mưu của Đảng và cơ quan chức năng của Nhà nước cần chủ động phối hợp nghiên cứu dự báo những vấn đề mà quốc tế quan tâm xung quanh lĩnh vực “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc”, chuẩn bị lý lẽ để trả lời kịp thời, đầy đủ, chính xác, đồng thời đập tan luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch. Tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia, các tổ chức quốc tế (nhất là các nước trong thế giới thứ ba, Ủy ban nhân quyền, Tiểu ban nhân quyền và Ủy ban kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc). Kiên quyết đấu tranh không để các tổ chức phản động lưu vong có tư cách tư vấn tại Liên hợp quốc.

Quyền con người, đảm bảo quyền con người trong thời đại toàn cầu hoá đang có những diễn biến mới và rất phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì và có bước đi, giải pháp đúng đắn, vừa tập trung phát triển kinh tế - xã hội trong nước, nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng dân chủ trong Đảng, trong xã hội vừa đẩy mạnh đấu tranh trên trường quốc tế. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải kiên trì nguyên tắc “nhân quyền không được cao hơn chủ quyền, nhân quyền không được phủ nhận chủ quyền”./.



(1) Chỉ thị 12/TW của Ban Bí thư, ngày 12-7-1992
(2) Cương lĩnh Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia 1998. tr120
(3) Chỉ thị 12/TW của Ban Bí thư , ngày 12-7-1992.
(4) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr113.