Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày cảng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân của nước ta. Để có được quan điểm sâu sắc như trên, Đảng ta đã trải qua một quá trình hoàn thiện nhận thức về vai trò của kinh tế nhà nước.

Trong hơn 20 năm qua, quá trình cải tổ của các nước thuộc hệ thống Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) đã đi theo hai con đường khác nhau. Các nước XHCN ở châu Âu lựa chọn con đường quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Tuy nhiên, sự quay trở lại con đường TBCN đã không đem lại cho các nước này kết quả mong muốn. Ngược lại, nhiều nước rơi vào tình trạng suy thoái, hỗn loạn, bị xâu xé bởi các mâu thuẫn dân tộc và âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Việt Nam lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN, tức là xây dựng nền kinh tế, trong đó thừa nhận các loại hình và chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công hữu giữ vai trò chủ đạo, thừa nhận KTTT, thậm chí hội nhập vào nền kinh tế thế giới, theo “luật chơi” của các nước tư bản, nhưng về mặt chính trị vẫn duy trì nền tảng chính trị của CNXH, trong đó mấu chốt là Đảng cộng sản cầm quyền, xây dựng nhà nước XHCN có khả năng thi hành các chính sách định hướng XHCN. Những thành tựu trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, cải thiện mức sống và nâng cao vị thế quốc gia; trong giữ vững độc lập, tự chủ, tự quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam ... đã khẳng định sự lựa chọn đường lối phát triển đất nước là đúng đắn.

Tuy nhiên để có được sự nhận thức rõ ràng về kinh tế nhà nước như hiện nay là cả một quá trình hoàn thiện nhận thức của Đảng ta, bắt đầu từ ý tưởng về xây dựng nền kinh tế XHCN dựa trên chế độ công hữu thuần khiết được xác định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương, đến tư tưởng xây dựng kinh tế XHCN dựa trên sở hữu toàn dân và tập thể của Đại hội Đảng lần thứ III... Và, mặc dù đến Đại hội Đảng lần thứ VI, khi đưa ra chính sách kinh tế nhiều thành phần vẫn chưa có khái niệm "kinh tế nhà nước", song chủ trương của Đảng vẫn là "đi đôi với phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác"(1).

Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, đồng thời với nhận thức về chế độ đa dạng hóa các loại hình sở hữu đã rõ nét hơn, Đảng đã chuyển sang quan điểm công hữu giữ vai trò chủ đạo, nhưng chưa phân biệt rõ doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước, nên còn gọi chung sở hữu nhà nước dưới thuật ngữ “kinh tế quốc doanh”. Cùng với đổi mới quan điểm về chế độ sở hữu, Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về KTTT: "Đổi mới về kinh tế, chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”; “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”(2); và phân định rõ phạm vi quản lý của Nhà nước và phạm vi tác động của cơ chế thị trường.

Tới Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngoài sự khẳng định rõ ràng mục tiêu vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN do Đại hội VII nêu ra, lần đầu tiên Đảng đưa ra khái niệm kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: "Kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng trong nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể. Kinh tế nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến"(3). Đại hội VIII đồng thời cũng có một số thay đổi đối với các thành phần kinh tế khác, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành cùng tồn tại lâu dài, tư tưởng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng đã cơ bản được hình thành ở Đại hội Đảng lần thứ VIII.

Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên mô hình KTTT định hướng XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng: " Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN"(4). Sự khẳng định mô hình KTTT định hướng XHCN là mục tiêu của đất nước ta trong Đại hội IX có hai ý nghĩa sâu sắc: một là, khẳng định tính nối tiếp của quá trình đổi mới của nước ta từ Đại hội VI; hai là, xác định rõ tính chất thị trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà nước không những thực thi vai trò chính trị mang bản chất XHCN, mà còn là một thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế độ kinh tế mới. Đồng thời, Đại hội IX cũng phân định kinh tế nhà nước có nội hàm rộng lớn hơn so với doanh nghiệp nhà nước, phân định sở hữu, thành phần và hình thức tổ chức kinh doanh, phân định quyền chủ sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Với việc chính thức hoá các đặc điểm nêu trên, Đại hội IX đã đưa ra quan điểm mới về thành phần kinh tế nhà nước. Thứ nhất, thành phần kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu nhà nước; thứ hai, sở hữu nhà nước có thể nằm trong tài sản của doanh nghiệp, có thể nằm dưới hình thức khác như ngân sách nhà nước, tài sản công…; thứ ba, chỉ với toàn bộ sức mạnh của sở hữu nhà nước hậu thuẫn cho chính sách kinh tế của Nhà nước, cho quản lý của Nhà nước, cho doanh nghiệp nhà nước ...thì Nhà nước mới có thể định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế…, tức thực thi vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ngoài ra, Đại hội Đảng lần thứ IX một lần nữa lại khẳng định tư tưởng công hữu phải là nền tảng của chế độ kinh tế XHCN, nhưng quá trình hình thành nền kinh tế XHCN phải dần dần, trong đó cần phát huy tối đa khả năng sản xuất của các thành phần kinh tế khác nhằm xây dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Cùng với quá trình đổi mới, phát triển kinh tế của đất nước, sự nhận thức về tổ chức kinh tế nhà nước của Đảng ngày càng hoàn thiện, thể hiện rất rõ nét tại Đại hội Đảng lần thứ X dưới ba khía cạnh:

Thứ nhất, Đại hội X của Đảng đã phân biệt rõ chế độ sở hữu, thành phần kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Khi nói chế độ sở hữu là nói về quyền của các chủ thể đối với tài sản nằm trong cơ cấu của cải xã hội. Chế độ sở hữu của nước ta gồm ba loại: toàn dân, tập thể, tư nhân. Như vậy, lần đầu tiên Đảng ta thừa nhận nền kinh tế quá độ của nước ta là nền kinh tế hỗn hợp, gồm nhiều loại hình sở hữu, mỗi chế độ sở hữu đều là yếu tố hợp thành chế độ kinh tế chung.

Thành phần kinh tế là tổng hợp sức mạnh có tổ chức của lực lượng kinh tế dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, xuất hiện dưới hình thức sở hữu nhà nước. Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu chung của một nhóm, một tập đoàn người, một cộng đồng dân cư nhất định. Thành phần kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu của tư nhân. Đại hội lần thứ X chỉ rõ hai thành phần kinh tế đặc biệt, đó là thành phần kinh tế tư bản nhà nước dựa trên sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước XHCN và tư bản tư nhân. Tuy nhiên, ở đây không thể gọi nó là thành phần kinh tế nhà nước vì nó không hoạt động trực tiếp vì lợi ích toàn dân, cũng không thể gọi nó là thành phần kinh tế tư bản tư nhân vì nó chịu sự chi phối mang tính XHCN của Nhà nước. Ngoài ra, cần thiết phải tách thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi thành phần kinh tế tư nhân, nhấn mạnh tính đặc thù của thành phần kinh tế này ở chỗ nó chịu sự chi phối của nước chủ đầu tư. Như vậy, thành phần kinh tế không chỉ bao hàm giác độ sở hữu, mà còn bao hàm sức mạnh tổ chức, sức mạnh hợp tác của các tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao hàm sức mạnh kinh tế đứng đằng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước, bao hàm khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng đắn của Nhà nước, sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước đã được hiểu tổng hợp hơn so với các kỳ Đại hội Đảng trước đây.

Hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh là sự tập hợp tư liệu sản xuất dưới một hình thức nào đó được pháp luật thừa nhận để trực tiếp tiến hành sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, đó là các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Một doanh nghiệp có thể dựa trên một hoặc nhiều hình thức sở hữu, là công cụ trong tay thành phần kinh tế đầu tư vốn vào doanh nghiệp để phục vụ cho mục tiêu của chủ đầu tư. Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ X nhấn mạnh tầm quan trọng của loại hình doanh nghiệp cổ phần, coi chúng là hình thức doanh nghiệp phổ biến. Thông qua các doanh nghiệp, thông qua các tổ chức đại diện cho chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế. Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của doanh nghiệp, doanh nhân trong phát triển kinh tế và tôn vinh những doanh nhân có tài, có đức, thành đạt, làm giàu cho mình và cho Tổ quốc. Cùng với chính sách cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân và quyết định của Nhà nước coi ngày 13 - 10 hàng năm là ngày doanh nhân, Đảng, Nhà nước ta đã chính thức thừa nhận vai trò to lớn của doanh nghiệp, doanh nhân nói chung, doanh nghiệp, doanh nhân tư nhân nói riêng.

Thứ hai, Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định lại vai trò chủ đạo, nền tảng trong chế độ kinh tế XHCN của kinh tế nhà nước: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"(5). Mặc dù khẳng định lại quan điểm của các kỳ Đại hội trước, nhưng Đại hội Đảng lần thứ X cũng làm rõ nội hàm của khái niệm chủ đạo của kinh tế nhà nước: Một là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân; hai là, kinh tế nhà nước là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của kinh tế nhà nước nhằm để tạo môi trường chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho doanh nghiệp nhà nước; bốn là, khẳng định lại một lần nữa kinh tế nhà nước có nội hàm rộng hơn doanh nghiệp nhà nước, hay nói cách khác, doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước.

Cùng với việc khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội cũng tuyên bố rõ ràng rằng: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(6) Đảng lãnh đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều thành phần của Đại hội Đảng X so với các Đại hội trước đây. Hơn nữa, Đại hội chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi trường công khai, minh bạch, cạnh tranh thực sự, xoá bỏ độc quyền, đặc quyền sản xuất, kinh doanh và buộc các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn tại. Nói cách khác, Đảng quán triệt quan điểm doanh nghiệp nhà nước chỉ nên tồn tại ở những nơi nó có hiệu quả cá biệt hoặc hiệu quả kinh tế quốc dân, nghĩa là tính ưu việt của quan hệ sản xuất XHCN phải được chứng minh trong môi trường bình đẳng với các quan hệ sản xuất khác. Đại hội cũng nêu rõ các điều kiện để doanh nghiệp nhà nước có thể phát huy ưu thế của mình, đó là doanh nghiệp nhà nước được giao quyền tài sản, được thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo nguyên tắc thị trường và pháp luật, tạo cơ chế gắn trách nhiệm và lợi ích của cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước hiện có… Như vậy, mặc dù vẫn nói là kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng cách thức chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở Đại hội Đảng lần thứ X có nhiều điểm mới so với trước.

Thứ ba, Đại hội Đảng lần thứ X đặt kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong môi trường thị trường đồng bộ, cạnh tranh và hội nhập. Có nghĩa là, kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng phải thích nghi và buộc phải hoạt động trong môi trường KTTT, chấp nhận luật chơi của các tổ chức kinh tế quốc tế, chấp nhận cạnh tranh trong điều kiện bảo hộ của Nhà nước giảm đến mức tối thiểu. Cụ thể, " Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp lĩnh vực nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp,…Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh…..Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất….Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế…Phát triển thị trường khoa học công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học, công nghệ trở thành hàng hoá"(7) và “ Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ đất nước làm mục tiêu cao nhất”(8). Quan điểm chỉ đạo kiên quyết này đặt ra cho quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp những yêu cầu mới: một là, Nhà nước phải chủ động thay đổi những phương thức hành động không phù hợp với KTTT và các cam kết quốc tế bằng các phương thức phù hợp và có hiệu quả hơn. Để làm được như vậy, Nhà nước phải có tiềm lực tài chính lớn, có nghĩa là vai trò của kinh tế nhà nước không giảm đi, ngược lại có thể tăng lên; hai là, doanh nghiệp nhà nước phải được cải tổ nhanh và chuyển sang các hình thức hoạt động có hiệu quả để tồn tại và đem lại cho Nhà nước một công cụ định hướng, điều tiết tốt. Để làm được như vậy, Đại hội chỉ rõ, “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích…Thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực...”(9); ba là, bộ máy nhà nước phải thích ứng với vai trò mới theo hướng:

- Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định hướng bằng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường cho các chủ thể phát huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô…;

- Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế;

- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp;

- Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ “chế độ chủ quản”;

- Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống các cơ quan đơn vị hoạt động sự nghiệp;

Bốn là, đội ngũ cán bộ công chức nhà nước phải có trình độ chuyên môn giỏi hơn, chuyên nghiệp hơn và nhất là phải thành thạo ngoại ngữ và sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại như công nghệ thông tin, luật pháp quốc tế...

Tóm lại, quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ X về kinh tế nhà nước vừa là sự kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, quan điểm của các kỳ Đại hội trước, vừa phát triển lên một mức cao hơn và giải thích rõ hơn các nội dung liên quan đến kinh tế nhà nước như mối quan hệ của nó với thành phần kinh tế khác, cấu thành của kinh tế nhà nước, vai trò và nội dung chủ đạo của kinh tế nhà nước, phương thức hoạt động của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường, hội nhập và quan hệ giữa nhà nước kinh tế và nhà nước chính trị… Những điểm phát triển này tạo cơ sở lý luận và nhận thức đúng đắn cho các đảng viên, nhất là các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo, quản lý. Song, có thể nhận thấy, thực tiễn vận hành kinh tế nhà nước sẽ còn đặt ra nhiều yêu cầu mới phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh về lý luận.



(1)Văn kiện Đại hội đại biểu taòn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr 56.
(2)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H.1991,tr 55.
(3)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1996,tr 81.
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001,tr 68.
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2006, tr83
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội . 2006, tr 83.
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006, tr 80-82.
(8) Sđ d tr 113-114.
(9) Sđ d tr 85