Phát triển hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012
TCCSĐT - Trước yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nhất là cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định, trong thời gian tới cần phát triển các hợp tác xã kiểu mới. Đây là mô hình hợp tác xã hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu của hợp tác xã.
Bối cảnh ra đời
Qua nhiều năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đạt được những thành tựu rất quan trọng, đời sống nông dân không ngừng được tăng lên, nhiều sản phẩm nông sản thuộc nhóm cao nhất thế giới, như gạo, tiêu, điều, cà phê, cao su, chè, cá, tôm,… Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt hiện tượng được mùa rớt giá năm nào cũng xảy ra. Hiện, thu nhập của nông dân vẫn thấp hơn đáng kể so với lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 50% lao động nhưng chỉ đóng góp hơn 17% tổng sản phẩm quốc nội, tức là năng suất lao động hay thu nhập bình quân của một nông dân chưa bằng 1/3 của người lao động trong công nghiệp và dịch vụ.
Có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất chính là việc tổ chức sản xuất nông nghiệp còn chậm đổi mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đa số hộ nông dân của nước ta, những đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp, rất nhỏ về tiềm lực kinh tế, sản xuất đơn lẻ và không tương thích với kinh tế thị trường và hội nhập hiện nay. Theo thống kê, nước ta có khoảng 12 triệu hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, trong đó 80% số hộ nông dân có diện tích canh tác dưới 1 ha, chỉ 20% lớn hơn 1 ha. Cả nước có 10 triệu hộ trồng cây hằng năm, bình quân mỗi hộ chỉ có 0,62 ha; 5 triệu hộ trồng cây lâu năm thì mỗi hộ chỉ canh tác trên diện tích bình quân 0,7 ha. Cả nước có hơn 4 triệu hộ nuôi lợn thì 77% các hộ nuôi dưới 5 con, có 8 triệu hộ nuôi gà thì 90% số hộ nuôi dưới 49 con. Với quy mô như vậy, nếu canh tác độc lập, riêng lẻ thì sức mạnh kinh tế của hộ nông dân rất nhỏ bé, khả năng chịu đựng rủi ro rất thấp, tình trạng thoát nghèo rồi tái nghèo rất dễ xảy ra.
Để liên kết các hộ nhỏ lẻ thành các đơn vị kinh tế lớn hơn, từ lâu chúng ta đã có chủ trương và chỉ đạo hình thành các hợp tác xã. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên có một thời gian dài nhận thức của chúng ta về bản chất và vai trò của hợp tác xã trong nông nghiệp chưa phù hợp với quy luật phát triển hợp tác xã. Vì vậy, tác dụng và hiệu quả của hợp tác xã còn hạn chế. Đa số các hợp tác xã chỉ cung cấp một số dịch vụ đầu vào cho xã viên như giống, phân bón, thức ăn, còn hơn 90% hợp tác xã không quan tâm đến điều xã viên quan tâm nhất, đó là tiêu thụ sản phẩm của hộ xã viên. Các hợp tác xã hoạt động hiệu quả chỉ liên kết, hỗ trợ được khoảng 5% số hộ nông dân cả nước, còn 95% số hộ thực chất là sản xuất theo phương thức tự phát. Bên cạnh đó, do nhận thức về hợp tác xã còn rất khác nhau ở các địa phương nên quy mô hợp tác xã và số lượng các dịch vụ hợp tác xã cũng rất khác nhau. Chưa kể, chất lượng, hiệu quả hoạt động và lợi nhuận của các hợp tác xã còn thấp (ước tính chỉ có khoảng 10% số hợp tác xã nông nghiệp làm ăn đạt hiệu quả tốt, còn lại hoạt động không hiệu quả, cầm chừng hoặc phải ngừng hoạt động, lợi nhuận bình quân năm rất thấp, giai đoạn 2010 - 2012 đạt 240 triệu đồng/năm/ hợp tác xã). Đa số các hợp tác xã nông nghiệp trước đây mới chỉ cung cấp được các dịch vụ đầu vào cơ bản cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, rất ít các hợp tác xã cung cấp được dịch vụ đầu ra. Một số hợp tác xã không còn khả năng hoạt động, muốn giải thể nhưng gặp phải những vấn đề phức tạp liên quan tới vốn góp, tài sản, công nợ của hợp tác xã được chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, một số địa phương cần giữ lại mô hình này để đáp ứng tiêu chí về xây dựng nông thôn mới… là những lý do chính khiến hơn 20% số hợp tác xã dù đã ngừng hoạt động nhưng vẫn không giải thể được.
Những kết quả ban đầu trong triển khai mô hình hợp tác xã kiểu mới
Với Luật Hợp tác xã năm 2012, nhận thức của chúng ta về hợp tác xã nói chung và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng đã thay đổi căn bản, phù hợp với quy luật phát triển.
Luật Hợp tác xã năm 2012 đã thể hiện rõ hơn bản chất của hợp tác xã là được thành lập trên cơ sở tự nguyện, hợp tác, bình đẳng, đồng sở hữu, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên hợp tác xã, nhằm mang lại lợi ích cho thành viên thông qua đáp ứng nhu cầu chung của thành viên về kinh tế, xã hội và văn hóa. Luật bổ sung nguyên tắc kết nạp rộng rãi thành viên đối với hợp tác xã và nguyên tắc bình đẳng, gắn kết về kinh tế của thành viên với hợp tác xã, bằng cách quy định: Thành viên hợp tác xã có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã. Thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm. Về nghĩa vụ của thành viên, Luật bổ sung thành viên hợp tác xã bắt buộc phải sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã theo hợp đồng dịch vụ giữa thành viên và hợp tác xã.
Khác với mô hình hợp tác xã kiểu cũ, hợp tác xã kiểu mới hoạt động nhằm mục đích tập trung mang lại lợi ích cho thành viên thông qua việc cam kết cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm theo nhu cầu của thành viên. Để đạt mục đích đó, hợp tác xã tự chủ trong hoạt động, có quyền được cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm cho cả đối tượng không phải là thành viên.
Ngoài ra, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã làm rõ hơn về các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước bao gồm 6 danh mục chính sách hỗ trợ; 2 danh mục chính sách ưu đãi chung cho các loại hình hợp tác xã; đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài các chính sách hỗ trợ, ưu đãi trên, còn được hưởng thêm 5 mục ưu đãi nữa về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động; tín dụng; vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; những chính sách này sẽ được Chính phủ quy định cụ thể.
Thực tế thành lập và vận hành các hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012 ở nhiều địa phương đã chứng minh các hợp tác xã này tuy chỉ có vài chục xã viên song đã thực sự giúp các hộ xã viên sản xuất - kinh doanh hiệu quả hơn hẳn, đặc biệt là quy hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
Nhiều địa phương đã đạt được những kết quả khích lệ. Tỉnh Hà Tĩnh có 1.653 tổ hợp tác, 914 hợp tác xã, đã có 604 hợp tác xã được thành lập mới. Các hợp tác xã đã thực hiện chuyển đổi, đăng ký kinh doanh, tổ chức lại, bước đầu đã khắc phục được những hạn chế, yếu kém của hợp tác xã kiểu cũ, chất lượng hoạt động dịch vụ được nâng lên, số hợp tác xã làm ăn hiệu quả tăng nhanh; hiện tượng hợp tác xã sản xuất, kinh doanh thua lỗ giảm dần, từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, phù hợp với các quy định của Luật Hợp tác xã, tham gia giải quyết tốt công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm và xây dựng nông thôn mới. Sự phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác đã có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương...
Tỉnh Đồng Tháp đến cuối năm 2014 có 14 hợp tác xã đã chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012, doanh thu bình quân là 1.800 triệu đồng/hợp tác xã, lợi nhuận bình quân 270 triệu đồng/ hợp tác xã (doanh thu tăng 100%, lợi nhuận tăng 108%). Trong giai đoạn 2014 - 2015, các hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, hình thành những hợp tác xã có quy mô liên xã, toàn xã, tổ chức sáp nhập một số hợp tác xã có quy mô nhỏ, giải thể các hợp tác xã hoạt động không hiệu quả.
Tại Lâm Đồng, thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, toàn tỉnh đã thành lập mới 23 hợp tác xã nông nghiệp (riêng trong năm 2015, thành lập mới 6 hợp tác xã), đã chuyển đổi 14 hợp tác xã và còn 66 hợp tác xã chưa chuyển đổi (có 51 hợp tác xã đã đăng ký chuyển đổi). 17 hợp tác xã trồng trọt chủ yếu nằm ở thành phố Đà Lạt và 3 huyện: Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng đang thực hiện việc ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao vào sản xuất như rau và hoa, như: Xây dựng nhà kính, nhà lưới, công nghệ tưới phun sương, nhỏ giọt, áp dụng giống mới, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap.
Để có nhiều hơn các mô hình hợp tác xã kiểu mới
Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ lớn hợp tác xã chưa rà soát, chuyển đổi hoạt động theo luật định, do nhiều địa phương lúng túng trong chỉ đạo thực hiện chuyển đổi hợp tác xã kiểu cũ sang hoạt động theo mô hình hợp tác xã kiểu mới, nhất là các hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
Việc chuyển đổi sang mô hình hợp tác xã kiểu mới còn gặp nhiều khó khăn bởi một số lý do, như:
- Các văn bản hướng dẫn dưới Luật được ban hành chậm, gây khó khăn cho hợp tác xã trong quá trình chuyển đổi, nhất là về thủ tục đăng ký thành lập. Một số tỉnh, thành phố chưa có văn bản hướng dẫn việc tổ chức lại hợp tác xã; chưa tiến hành rà soát, đánh giá các hợp tác xã trên địa bàn, từ đó tổ chức đăng ký lại cho các hợp tác xã và tiến hành giải thể, chuyển đổi những hợp tác xã không còn hoạt động hoặc hoạt động yếu kém.
- Một số hợp tác xã còn lúng túng trong việc thực hiện chuyển đổi bởi đây là quá trình chuyển đổi sang mô hình mới đã làm thay đổi căn bản về quan hệ sở hữu, quan hệ kinh tế, quan hệ phân phối và mức vốn góp tối đa đối với các thành viên khi tham gia hợp tác xã kiểu mới.
- Nhiều cán bộ, đảng viên và người dân còn có tâm lý mặc cảm với hợp tác xã kiểu cũ dẫn đến chưa thấy hết vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tập thể, thậm chí hiểu chưa đúng bản chất, vị trí, vai trò, nguyên tắc hoạt động của hợp tác xã; chưa phân biệt được sự khác nhau giữa mô hình hợp tác xã kiểu mới với mô hình hợp tác xã kiểu cũ, giữa hợp tác xã với doanh nghiệp.
- Chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã chưa thực hiện đầy đủ, hiệu quả thấp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của hợp tác xã cũng như quá trình rà soát, đăng ký lại để thực hiện chuyển đổi không bảo đảm thời hạn theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012.
Kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã là bộ phận của nền kinh tế, là một thành tố không thể thiếu trong chuỗi sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững; phát triển cộng đồng bảo đảm an sinh xã hội cho một bộ phận dân cư và trật tự an toàn xã hội. Với Luật Hợp tác xã năm 2012, nhiều hợp tác xã kiểu mới đang tạo ra công ăn việc làm ổn định cho những người ít có cơ hội tham gia thị trường lao động. Để nhân rộng hơn nữa các mô hình hợp tác xã kiểu mới, thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; tăng cường việc tổng kết, nhân rộng các mô hình kinh tế tập thể làm ăn có hiệu quả; phổ biến các mô hình hợp tác xã kiểu mới, kinh nghiệm của phong trào hợp tác xã trong khu vực và quốc tế đến toàn dân.
Đổi mới và đa dạng hóa công tác tuyên truyền, tập huấn pháp luật về hợp tác xã. Tích cực tuyên truyền về chủ trương, chính sách phát triển hợp tác xã, mô hình hợp tác xã kiểu mới đến toàn dân thông qua tài liệu tập huấn, tờ rơi, báo chí, truyền hình phát sóng trên các kênh của Đài truyền hình Trung ương và địa phương.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp chặt chẽ, trách nhiệm cao của các bộ, ngành, các địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội (nhất là Hội Nông dân Việt Nam), Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012.
Thứ ba, tập trung hỗ trợ tài chính từ các nguồn lồng ghép với chính sách thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để thành lập một số mô hình điểm ở các tỉnh nông nghiệp đối với hai loại hình hợp tác xã là hợp tác xã dịch vụ công ở nông thôn và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, củng cố lại hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012.
Ưu tiên các giải pháp thiết thực hỗ trợ các hợp tác xã về khoa học - công nghệ, vốn, nguồn nhân lực, thị trường...; tận dụng các cơ hội cũng như có các giải pháp hạn chế các mặt tiêu cực trong quá trình hội nhập.
Thứ tư, xây dựng mô hình hợp tác xã chuyên ngành, phát triển đa dạng các loại hình hợp tác xã ở các địa phương với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hoá khác nhau nhằm phát huy thế mạnh tiềm năng kinh tế của địa phương. Mỗi địa phương chọn chỉ đạo điểm xây dựng một số hợp tác xã kiểu mới trên các lĩnh vực nông nghiệp; thương mại dịch vụ cung ứng giống, vật tư, tiêu thụ sản phẩm; vận tải… Trên cơ sở các mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới đó, tổng kết, tuyên truyền, phổ biến và nhân rộng nhiều loại hình hợp tác xã kiểu mới trên toàn quốc.
Thứ năm, tổ chức, củng cố lại hoạt động của các hợp tác xã theo đúng bản chất hợp tác xã, Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn bản hướng dẫn; phát huy vai trò làm chủ của thành viên; vận động thành viên hợp tác xã góp vốn và nâng mức vốn góp; vận động hợp tác xã thu hút thêm thành viên, hợp nhất, sáp nhập hợp tác xã cùng ngành, nghề và địa bàn hoạt động để tăng tiềm lực tài chính và quy mô hoạt động của hợp tác xã. Giải thể các hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả, hoạt động hình thức./.
Bộ Y tế quyết tâm đẩy mạnh nhân rộng mô hình bác sĩ gia đình để chăm sóc sức khỏe người dân tốt hơn  (04/03/2016)
Nước Mỹ: hiện tại và tương lai  (04/03/2016)
Ủng hộ hòa bình, ổn định, phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên  (03/03/2016)
Ngành Y tế tiếp tục chủ động lấy người bệnh làm trung tâm để phục vụ  (03/03/2016)
Chủ tịch nước: Không dồn việc khó cho Quốc hội khóa mới  (03/03/2016)
- Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong mô hình kinh tế chia sẻ
- Vai trò của Nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa
- Hoàn thiện một số quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
- Hợp tác Việt Nam - Liên minh châu Âu trong bảo đảm an ninh lương thực: Cơ hội và thách thức
- Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong bối cảnh mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay