Phạm Văn Đồng - Những câu chuyện nhỏ về một nhân cách lớn

TS. Vũ Ngọc Hoàng Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương
22:04, ngày 28-04-2014

TCCSĐT - Đồng chí Phạm Văn Đồng không chỉ là người từng giữ chức Thủ tướng Chính phủ rất nhiều năm, được nhân dân kính yêu, tôn trọng, mà hơn hết, là một nhà văn hóa lớn, một nhân cách lớn.

Từ tuổi thiếu niên, theo bộ đội thoát ly lên vùng giải phóng, sống gần các cô chú, các anh chị ở chiến khu của tỉnh Quảng Nam, tôi đã nghe nhiều người nhắc đến đồng chí Phạm Văn Đồng với một sự kính trọng và yêu mến. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước ngày ấy, sau Bác Hồ, có rất nhiều đồng chí được cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân kính yêu, tôn trọng. Đến nay, trong nhân dân, nhiều người vẫn thường nói đó là thế hệ lãnh đạo “vàng” và mong muốn có những người lãnh đạo như vậy. Phạm Văn Đồng là một trong số những người học trò xuất sắc được Bác Hồ tin yêu. Lớn lên, đi học rồi công tác ở nhiều nơi với các vị trí khác nhau, được tiếp xúc nhiều người, nghe kể và nghe những nhận xét về đồng chí Phạm Văn Đồng, được đọc sách gồm các bài nói, bài viết của đồng chí, trong ký ức tôi in đậm dần một hình ảnh Phạm Văn Đồng mà tôi rất kính trọng, yêu quý về một nhân cách lớn, một nhà văn hóa lớn, có kiến thức sâu rộng, trí tuệ uyên thâm, sáng suốt.

Tôi được nghe mấy đồng chí lớn tuổi kể lại, thời chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, một lần, khi máy bay Mỹ đang ném bom dữ dội ở Khu 4, thì tại Hà Nội, đồng chí Phạm Văn Đồng vẫn triệu tập và chủ trì một Hội nghị bàn về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Trong lời khai mạc Hội nghị, đồng chí đã nói đại ý là: Máy bay Mỹ đang ném bom dữ dội ở Khu 4, ném vào các làng mạc, khu dân cư. Họ muốn tiêu diệt chúng ta. Còn chúng ta, hôm nay, với sự điềm tĩnh của những con người đầy tự tin vào chính mình, vào sự tất thắng của chính nghĩa, họp mặt tại đây để bàn về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tiếng Việt còn thì dân tộc còn. Dân tộc còn thì dân tộc này sẽ chiến thắng… Nghe đồng chí nói, nhiều người xúc động về tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh của một người lãnh đạo, của một tập thể lãnh đạo đáng kính trọng. Cũng ngày còn làm Thủ tướng, đồng chí có lần nhắc các nghệ sĩ, ca sĩ, khi hát phải nhớ hát cho rõ lời, để người nghe hiểu được ca từ. Nhân câu chuyện này, tôi muốn nói thêm một ý: Với một nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn trường tồn, không bị đồng hóa, là nhờ văn hóa, trong đó có vai trò rất quan trọng của tiếng Việt. Vậy mà hiện nay đi ngoài phố, ngay cả ở Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn vật, hay ở Thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu, thấy rất nhiều bảng hiệu người ta viết toàn tiếng Tây, tiếng Tàu, tiếng Hàn, tiếng Nhật, không “thèm” viết tiếng Việt. Làm như vậy là để cho sang, cho oai, để ra vẻ “Tây” hay sao? Thấy mà buồn rằng trong dân ta vẫn còn những người không biết quý trọng cái ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc mình. Tất nhiên, trong đó có phần trách nhiệm của các cơ quan chức năng. Việc hát trên sân khấu, trên truyền hình cũng vậy, nhiều khi không hiểu các ca sĩ trẻ đang hát gì, cứ như là không phải hát bằng tiếng Việt. Có lẽ việc này sẽ bàn riêng trong dịp khác. Bây giờ quay lại chuyện về đồng chí Phạm Văn Đồng.

Trong một dịp vào thăm Quảng Nam - Đà Nẵng (khi ấy đồng chí Phạm Văn Đồng đã thôi giữ chức Thủ tướng, làm Cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng), khi đồng chí gặp mặt Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và một số cán bộ, tướng lĩnh đã nghỉ hưu ở Quảng Nam - Đà Nẵng, có một đồng chí cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu phát biểu: Đồng chí Phạm Văn Đồng là một Thủ tướng lâu nhất… Nghe câu đầu tiên như vậy, đồng chí nói ngay: Làm chức gì đó, lâu hay không lâu có ý nghĩa gì đâu, cái quan trọng nhất là có làm được gì cho dân, cho nước, cho Đảng hay không, chứ lâu mà để làm gì. Tôi tự thấy tôi cũng có không ít khuyết điểm, thiếu sót. Đồng chí cán bộ hưu trí chuyển sang ý khác: Lâu nay các đồng chí lãnh đạo ở Trung ương ít quan tâm đến miền Trung. Các đồng chí đó từ Hà Nội bay thẳng vào Thành phố Hồ Chí Minh, bỏ qua miền Trung nằm dưới cánh máy bay. Hiện tại, miền Trung rất khó khăn, không phát triển được. Nhờ đồng chí Phạm Văn Đồng phản ảnh giúp với Trung ương ý kiến của chúng tôi: Đề nghị Trung ương quan tâm nhiều hơn đối với miền Trung. Nghe xong ý kiến đó, đồng chí đáp lời: Tôi có trách nhiệm sẽ phản ánh ý kiến của các đồng chí với Trung ương, nhưng tôi cũng muốn nói với các đồng chí một câu chuyện. Đây là câu chuyện văn học của thế giới: Một lần, đứa con trai từ mặt trận chạy về nói với mẹ rằng, mẹ ơi, mẹ trao cho con thanh gươm ngắn quá, con không thể lập công được. Mẹ hãy trao cho con một thanh gươm dài hơn. Bà mẹ lắng nghe con nói và nói lại: Khi thanh gươm ngắn, muốn lập công thì con phải bước tới chứ sao lại chạy về hỏi mẹ? Chạy lui về thì làm sao mà lập được chiến công?

Một lần khác, đồng chí Phạm Văn Đồng vào thăm Quảng Nam, Quảng Ngãi, khi ấy tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng vừa mới tách ra từ một tỉnh chung Quảng Nam - Đà Nẵng. Tỉnh Quảng Nam chuyển tỉnh lỵ từ thành phố Đà Nẵng về thị xã Tam Kỳ. Những ngày đầu tiên vừa mới tách ra, các cơ quan của tỉnh chưa có trụ sở, phải mượn tạm địa điểm để làm việc từ các nhà dân và các cơ quan của thị xã, của doanh nghiệp. Lúc ấy Tỉnh ủy mượn một cơ sở của xí nghiệp chế biến rau quả để làm việc, nằm trên một quả đồi còn hoang vắng. Hôm về thăm, đồng chí Phạm Văn Đồng sức khỏe đã yếu nhiều, đi lại phải có người dìu. Tuy nhiên, đồng chí không chịu ngủ ở Đà Nẵng hay ở Quảng Ngãi, nơi có nhà nghỉ khang trang. Đồng chí Phạm Văn Đồng nói để đồng chí ngủ ở Quảng Nam, tỉnh mới tách ra còn rất nhiều khó khăn. Đồng chí muốn biết anh em làm việc và sống khó khăn đến mức nào; cán bộ của tỉnh ở nhà công vụ như thế nào thì để đồng chí ở như thế. Trong buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh, đồng chí Phạm Văn Đồng nói, Quảng Nam thời chiến tranh nhiều lúc khó khăn lắm, khó khăn hơn bây giờ rất nhiều, nhưng mỗi lần khó khăn như vậy thì Quảng Nam đã bật dậy, vượt qua, tiến lên, lập những chiến công vang lừng. Truyền thống của đất Quảng là vậy, văn hóa của con người vùng đất này là vậy. Khó khăn cũng là “cơ hội”. Khó khăn làm cho những con người có bản lĩnh bật dậy mạnh hơn. Khó khăn của các đồng chí là có thật, hãy báo cáo kỹ cho các cơ quan Trung ương biết rõ; khi biết rõ tình hình, chắc không ai từ chối giúp Quảng Nam, một tỉnh đi đầu trong kháng chiến chống quân xâm lược Mỹ.

Hai câu chuyện kể trên, ngày ấy và sau này, nhiều cán bộ ở Quảng Nam, Đà Nẵng vẫn hay nhắc lại để nói về sự uyên thâm, thông minh, sắc sảo của đồng chí Phạm Văn Đồng (lúc ấy đã ngoài 90 tuổi).

Đồng chí Phạm Văn Đồng có nhiều bài viết, bài nói về văn hóa, trong đó có những bài rất sâu sắc. Ngày đang làm Thủ tướng, làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và kể cả khi đã nghỉ hưu, đồng chí dành nhiều tâm sức cho văn hóa. Gần đây, tôi đọc lại cuốn sách “Văn hóa và đổi mới” của đồng chí, trong đó có nhiều ý càng suy ngẫm, càng thấy hay và sâu sắc, với tầm nhìn rộng, xa và sâu. Trong sách, đồng chí viết: “Văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa”. Luận điểm đó đã kích thích tôi suy nghĩ nhiều điều về văn hóa và đổi mới.

Đúng như vậy, đổi mới phải bắt nguồn, bắt rễ từ mảnh đất văn hóa: truyền thống văn hóa của dân tộc, tinh hoa văn hóa của thời đại… Đổi mới phải trên một nền tảng văn hóa bền vững và tiến bộ, phải thấm nhuần tư tưởng nhân văn thì mới thành công, vững chắc. Đổi mới mà tách rời nền tảng văn hóa thì sẽ chông chênh, dễ đổ ngã. Bản thân công việc đổi mới là văn hóa, cần được ứng xử như văn hóa, và bản thân văn hóa cũng luôn có nhu cầu liên tục hoàn thiện, để ngày càng có nhiều cái tốt hơn, cái đẹp hơn, mà muốn vậy thì phải không ngừng đổi mới. Văn hóa vừa có đặc điểm về tính kế thừa rất cao, là sự tích góp liên tục của tầng tầng, lớp lớp các trầm tích; lại vừa có nhu cầu không ngừng đổi mới để sáng tạo, vì văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Bởi vậy, kế thừa và đổi mới là hai mặt biện chứng của một quá trình thống nhất trong sự vận động và phát triển của văn hóa, do đó, không thể chú ý mặt này mà không chú ý mặt kia. Văn hóa phân biệt con người với tự nhiên, văn hóa tạo ra con người, làm cho con người trở nên Người hơn; văn hóa là chất người, là tính người, là phương tiện để nâng con người lên một trình độ mới. Còn đổi mới cũng là sự nghiệp của con người, do con người; muốn đổi mới thành công và bền vững, phải bắt đầu từ con người, cũng tức là từ văn hóa. Mục tiêu của nền văn hóa Việt Nam phải nhằm hướng đến một dân tộc Việt Nam phát triển và hạnh phúc. Trường tồn là yêu cầu chính đáng, là bản sắc văn hóa của dân tộc, để Việt Nam vẫn còn mãi là Việt Nam, không biến thành một dân tộc khác (bị đồng hóa) trong quá trình tiếp biến văn hóa, nhưng trường tồn là để phát triển, để tiến lên, không phải để đứng yên, tụt hậu. Và ngày nay, trong thế giới hội nhập, đang có cuộc tiếp biến văn hóa ở quy mô toàn cầu, muốn tồn tại thì phải phát triển, đồng thời, muốn phát triển thì phải đổi mới. Đất nước ta qua 28 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhưng hiện tại, nhiều cơ chế, chính sách áp dụng trong những năm trước đây đã giảm dần tác dụng và hiệu quả, không còn tác dụng như lúc đầu, trong khi tình hình xã hội đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đòi hỏi phải được giải quyết, do đó, nếu không tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và toàn diện như tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng thì khó mà tiếp tục tiến lên, thậm chí khó tránh khỏi những khủng hoảng về kinh tế và xã hội.

Văn hóa là cái đẹp, có thiên chức tạo ra, nuôi dưỡng và nhân lên cái đẹp. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải là một xã hội tốt đẹp, mang lại sự phát triển và hạnh phúc cho con người. Tốt đẹp mới là xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội nhất định phải là một sản phẩm rất văn hóa, rất trí tuệ của nhân dân ta, chứ không phải là những suy nghĩ xơ cứng, rập khuôn, máy móc. Phải tạo ra cho được cái tốt đẹp, nhiều cái tốt đẹp thì mới có chủ nghĩa xã hội. Cho nên, văn hóa và đổi mới là hai trong số những vấn đề chính yếu để có chủ nghĩa xã hội. Nói văn hóa và đổi mới là hai vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau cũng là đúng, không sai, nhưng có lẽ sẽ biện chứng hơn khi cho rằng, văn hóa và đổi mới là hai mặt của một vấn đề, như quan điểm của đồng chí Phạm Văn Đồng.

Từ quan điểm của đồng chí Phạm Văn Đồng về văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa và đổi mới, gợi cho chúng ta có thể tiếp tục suy nghĩ và nghiên cứu, lý giải nhiều vấn đề về văn hóa và đổi mới, nhằm góp phần phát triển lý luận về văn hóa Việt Nam.

Một câu chuyện nữa tôi được nghe từ một đồng chí từng nhiều năm rất gần gũi với đồng chí Phạm Văn Đồng kể lại: Khi đang làm Thủ tướng, một hôm, đồng chí tâm sự với người thư ký rằng, ông sắp tổ chức đám cưới cho con trai mà không có gì để tặng con dâu. Ông đã hỏi vay người thư ký một chỉ vàng. Những ngày cuối đời, ông đã di chúc lại cho con trai: “Ba không có bất kỳ một thứ của cải gì để lại cho con, chỉ để lại một sự nghiệp suốt đời phục vụ nhân dân mà con phải tiếp tục”. Nghe câu chuyện này, kể cả lần nghe đầu và các lần sau nghe lại, tôi rất xúc động.

Sau Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đồng chí lãnh đạo có uy tín, tài năng và công lao lớn, trong đó có đồng chí có mặt còn hơn đồng chí Phạm Văn Đồng. Nhưng riêng đối với lĩnh vực văn hóa, thì trong suy nghĩ của tôi, sau Hồ Chí Minh là Phạm Văn Đồng. Ông là một nhà nghiên cứu và thực hành văn hóa, có tư duy và nhiều kiến thức rất sâu sắc về văn hóa, luôn tâm huyết với văn hóa, sống văn hóa, trong sáng, giản dị, thanh bạch, không ham giàu sang phú quý, giàu tính nhân văn, luôn yêu thương con người, hết lòng với dân, với nước, với Đảng, với lý tưởng của mình. Cuộc đời ông là một tấm gương sáng về nhân cách. Phạm Văn Đồng là một nhà văn hóa lớn, một nhân cách lớn, thật đáng kính trọng và noi theo./.