Chính sách, pháp luật về quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số ở Việt Nam
TCCS – Trong kỷ nguyên số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vấn đề chuyển đổi số đang đặt ra cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có vấn đề quản trị địa phương. Bối cảnh đó đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp, nhất là việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan, để góp phần hóa giải thách thức, tận dụng cơ hội từ quá trình chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả quản trị địa phương.
Khung chính sách, pháp luật về quản trị địa phương
Khung pháp luật, chính sách về quản trị địa phương rất đa dạng. Nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đã ban hành các luật riêng về quản trị địa phương, ví dụ luật về các quyền; luật về dân tộc thiểu số; luật về dân tộc thiểu số và ngôn ngữ thiểu số; luật về tự quản địa phương; luật về tự trị địa phương; luật về tình trạng pháp lý riêng biệt; luật về chính quyền địa phương... Ngay trong một quốc gia cũng có thể tồn tại nhiều luật điều chỉnh về chính quyền địa phương cùng một thời kỳ và qua các thời kỳ khác nhau. Ví dụ, Tajikistan ban hành Luật về chính quyền địa phương tự quản và tài chính địa phương năm 1991. Tháng 12-1994, Quốc hội Tajikistan thông qua Luật Hiến pháp về hành chính công địa phương và Luật về tự quản ở thị trấn và làng xã; tháng 12-1999, thông qua hai luật mới là Luật Bầu cử Nghị viện và Luật Bầu cử Hội đồng địa phương(1). Ở châu Âu, Hội đồng châu Âu ban hành Hiến chương châu Âu về tự quản địa phương…
Cùng với hiến pháp, luật cũng là văn bản quan trọng ghi nhận quyền con người và quyền của dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các nước theo nhiều cách tiếp cận khác nhau về luật điều chỉnh, tên gọi và nội dung của luật(2). Nhiều nước trên thế giới thực hiện chế độ tự quản địa phương, theo đó, vấn đề nhập, tách, thành lập mới đơn vị hành chính lãnh thổ và quyết định các vấn đề quan trọng khác ở địa phương thường phải trưng cầu dân ý hoặc tham vấn ý kiến nhân dân địa phương có liên quan(3).
Ở Việt Nam, khung pháp luật, chính sách về quản trị địa phương trước hết phải kể đến Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh đó là Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các luật, pháp lệnh chuyên ngành (giáo dục, ngân sách nhà nước, thủ đô, bảo hiểm, du lịch, đường sắt, hàng hải, hàng không, giao thông đường bộ, đất đai, tài nguyên nước, lâm nghiệp, xây dựng, khoáng sản, bảo vệ môi trường, lao động, doanh nghiệp, đầu tư, nhà ở, bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, dân chủ ở cơ sở, quốc tịch, biên giới quốc gia, thỏa thuận quốc tế…). Về chuyển đổi số, có các văn bản liên quan trực tiếp, như Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch điện tử, Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Tần số vô tuyến điện, Luật Lưu trữ… và các luật có chứa những điều khoản về chuyển đổi số, như Luật Quản lý thuế, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Quy hoạch, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công… Ngoài ra, còn nhiều văn bản pháp luật áp dụng cho từng địa phương và văn bản của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương áp dụng đối với địa phương mình(4).
Những vấn đề đặt ra trong quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số hiệu quả
Quản trị địa phương luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu trên thế giới. Đã có nhiều tiêu chí có liên quan được sử dụng để đánh giá. Báo cáo Quản trị phát triển bền vững của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) năm 1997 nêu quan niệm và các tiêu chí để đánh giá thế nào là quản trị tốt, bao gồm: Quản trị quốc gia có sự tham gia của người dân (người dân có tiếng nói trong hoạch định chính sách, có dân chủ đại diện, có tự do ngôn luận và lập hội); có chế độ pháp quyền; có chính quyền minh bạch; chính quyền quan tâm tới lợi ích xã hội của tất cả các bên hữu quan; tạo đồng thuận rộng rãi trong xã hội; đối xử công bằng; người lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược. Hướng dẫn dành cho người dùng để đo lường quản trị địa phương của UNDP năm 2015 đưa ra các đánh giá về quản trị địa phương, dẫn chiếu tới các yếu tố, như hệ thống chính trị địa phương, các vấn đề về thể chế, các vấn đề xã hội và liên ngành (quy trình chính sách, quy trình ngân sách, huy động nguồn thu, cung cấp dịch vụ, giới tính, môi trường bền vững…) và môi trường kinh doanh, thương mại.
Bên cạnh việc đánh giá quản trị địa phương dựa trên các tiêu chí, còn phải tính đến tính đa dạng của văn hóa địa phương, văn hóa tộc người, vị trí địa lý, trình độ phát triển kinh tế… Đối với quản trị địa phương, chuyển đổi số gắn liền với một số thay đổi cấu trúc quan trọng, như cơ cấu tổ chức, văn hóa tổ chức, lãnh đạo, vai trò và kỹ năng của nhân viên(5). Các mục tiêu chính của chuyển đổi số bao gồm chuyển đổi cung cấp dịch vụ, văn hóa tổ chức, mối quan hệ với công dân và tạo ra giá trị(6). Một trong những thách thức lớn nhất của chuyển đổi số trong khu vực công là đạt được sự tích hợp trong các hệ thống thông tin khác nhau hiện có, vì có sự phân tán của các bộ phận khác nhau và chức năng của chúng(7). Hàng loạt chỉ số quan trọng trong quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số cần được tích hợp, như Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI), Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX), Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS), Chỉ số thương mại điện tử (EBI), Chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông (ICT)…
Về cơ bản, quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số và việc ban hành hệ thống văn bản về quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số đã đạt nhiều kết quả tích cực. Hạ tầng công nghệ thông tin, các nền tảng số tiếp tục được phát triển ở Trung ương và địa phương, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu chuyển đổi số. Các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành được đẩy mạnh triển khai xây dựng, kết nối, chia sẻ. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư của Bộ Công an đã kết nối, liên thông với 47 bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cấp trên 76 triệu thẻ căn cước gắn chíp điện tử; đồng bộ hơn 234 triệu thông tin tiêm chủng; kích hoạt gần 2,6 triệu tài khoản định danh điện tử; xác định thông tin chính xác của gần 50 triệu thuê bao di động(8)... Gần đây, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và các cơ quan xây dựng Bộ chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương và triển khai thử nghiệm tại 20 tỉnh, thành phố ở 6 vùng kinh tế, có mức thu nhập, cơ cấu kinh tế khác nhau, đủ tiêu chí để đại diện cho tất cả 63 địa phương trên toàn quốc(9)... Nhiều văn bản quan trọng liên quan đến quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số đã được ban hành, ví dụ Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, quy định việc hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học - kỹ thuật, trang bị phương tiện kỹ thuật và bảo đảm các điều kiện cần thiết khác cho việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở phù hợp với tiến trình xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số, xã hội số; việc biểu quyết trực tuyến phù hợp với mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và được cộng đồng dân cư thống nhất lựa chọn…; Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, đặt mục tiêu cơ bản đến năm 2025 có 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng…
Tuy nhiên, quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số ở Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục được quan tâm giải quyết. Môi trường pháp lý cho phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số chưa hoàn thiện, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong triển khai…; hoạt động của các cơ quan nhà nước chủ yếu vẫn theo phương thức thủ công và bán thủ công, nhiều văn bản điện tử được gửi qua mạng, nhưng vẫn gửi văn bản giấy song song; các quyết định của cơ quan nhà nước chủ yếu vẫn chưa dựa trên phân tích dữ liệu nhờ công nghệ số; tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến còn thấp, chỉ khoảng 23,5%. An toàn, an ninh mạng tại các bộ, ngành, địa phương còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức; tỷ lệ đầu tư cho an toàn, an ninh mạng còn thấp (khoảng 5%)(10). Trong khi đó theo báo cáo International Privacy Day Report 2020 của Kaspersky, Việt Nam đứng thứ 9 trên toàn cầu về mức độ bị ảnh hưởng bởi phần mềm gián điệp, với 7.216 người dùng bị tấn công vào năm 2019(11). Trong năm 2021, Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông ghi nhận, cảnh báo và hướng dẫn xử lý hơn 9.700 cuộc tấn công mạng dẫn đến sự cố đối với các hệ thống thông tin tại Việt Nam, tăng 42,42% so với năm 2020(12). Một tín hiệu khả quan là hiện tại, Việt Nam đứng thứ 25 trên tổng số 194 quốc gia và vùng lãnh thổ theo Chỉ số an ninh mạng toàn cầu (GCI)(13).
Theo Báo cáo Thương mại điện tử các nước Đông Nam Á năm 2019 của Google, Temasek và Bain&Company, với quy mô ban đầu là 3 tỷ USD năm 2015, nhưng với tốc độ tăng trưởng trung bình tới 38%, quy mô thương mại điện tử bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng của Việt Nam năm 2019 đạt 12 tỷ USD. Báo cáo này dự đoán tốc độ tăng trưởng trung bình cho cả giai đoạn 2015 - 2025 là 29%. Khi đó, quy mô thương mại điện tử của Việt Nam sẽ vươn tới ngưỡng 43 tỷ USD và đứng ở vị trí thứ ba trong khối ASEAN.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số
Để tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số trong thời gian tới, cần chú ý một số yêu cầu sau:
Một là, nâng cao chất lượng quản trị địa phương phải đặt trong tổng thể cải cách thể chế hành chính nhà nước, tổ chức lãnh thổ, bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền trung ương với chính quyền địa phương, theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, thực hiện phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương theo hình thức phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương, bảo đảm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ.
Hai là, nâng cao chất lượng quản trị địa phương phải bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ từ chất lượng thể chế, tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực đến năng lực điều hành, quản lý.
Ba là, bám sát đặc thù của vùng lãnh thổ và tộc người, phù hợp với văn hóa các dân tộc thiểu số về không gian sinh tồn, về vai trò của già làng, trưởng bản…, cách thức tổ chức phát triển cộng đồng, bảo đảm tính chủ động của đồng bào dân tộc thiểu số…
Bốn là, nâng cao chất lượng quản trị địa phương cần gắn với phát triển bền vững theo hướng: Bảo đảm sự hài hòa giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, được gắn kết bằng thể chế quốc gia đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và cần được triển khai theo những vùng lãnh thổ rộng lớn (vùng kinh tế và các lưu vực sông) để hướng tới sự phát triển về con người trong tương lai; phải có tầm dài hạn, khắc phục các chính sách mang tính chắp vá, đối phó, được xây dựng một cách chia cắt, thiếu phối hợp trong vùng và cả nước hoặc không phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay; phải chú ý các giải pháp liên quan đến môi trường pháp lý và hệ thống tổ chức, quản lý hiện đại. Chú trọng đầy đủ tới các nhân tố liên quan đến phát triển con người, hệ thống xã hội, chính quyền và quản lý nhà nước; vấn đề hạ tầng; hệ thống kinh tế; tài nguyên và môi trường...(14)
Năm là, nâng cao chất lượng quản trị địa phương gắn với chuyển đổi số cần được thực hiện đồng bộ ở cả ba trụ cột, đó là chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Chú trọng xây dựng hệ thống chính quyền số để nâng cao năng lực quản lý, điều hành, tăng cường tính công khai, minh bạch. Kinh tế số góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng năng suất lao động, tạo động lực tăng trưởng mới. Xã hội số góp phần tạo sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận dịch vụ, đào tạo, tri thức…
Trước mắt, một số vấn đề cần được quan tâm hoàn thiện bao gồm:
Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản trị địa phương.
Để hoàn thiện tổ chức bộ máy quản trị địa phương, cần lưu ý đặc thù từng vùng, miền để xác định cách thức quản trị địa phương phù hợp, ví dụ đối với vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc, cần tính toán đầy đủ thiết chế xã hội truyền thống tộc người trong xây dựng, hoàn thiện tổ chức; đối với vùng đồng bằng Bắc Bộ, cần sớm hiện đại hóa, cải cách đáp ứng yêu cầu hội nhập, đi tiên phong cho các địa phương khác trong cả nước; đối với vùng duyên hải và các đảo trên vịnh Bắc Bộ, cần tổ chức phù hợp với đặc thù duyên hải và đảo.
Điều này cũng được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 với quy định tại Điều 111: 2. Cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Cũng cần lưu ý thêm quy định của Hiến pháp năm 2013 là đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
Cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền, ủy quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm để bảo đảm hiệu quả trong quản trị nhà nước, khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp chính quyền địa phương.
Thứ hai, đẩy mạnh quá trình thực hiện chuyển đổi số gắn với xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số ở địa phương; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Thực hiện chuyển đổi số gắn với xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số là giải pháp hữu hiệu giúp các cấp chính quyền địa phương nâng cao năng lực quản trị địa phương, để chính quyền địa phương các cấp quản trị hiệu quả hoạt động của địa phương và phục vụ một cách hiệu quả nhất đối với người dân và doanh nghiệp. Trước mắt, chính quyền địa phương các cấp phải xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch triển khai và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp chuyển đổi số, xây dựng và thường xuyên cập nhật, bổ sung bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số, bao gồm các chỉ số đánh giá về Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số của quốc gia, từng ngành, từng địa phương trên cơ sở kế thừa, phát triển từ bộ chỉ số đo lường Chính phủ điện tử; xây dựng, lồng ghép tiêu chí đánh giá về chuyển đổi số vào Bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI Index), Bộ chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) và Bộ chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông (ICT Index), Bộ chỉ số đánh giá mức độ ứng dụng công nghệ thông tin gắn với Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030…
Về lâu dài, chính quyền địa phương các cấp phải tiếp tục có những chiến lược, kế hoạch, giải pháp đột phá để xây dựng chính quyền địa phương hướng tới chính quyền điện tử, chính quyền số phục vụ người dân và doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Thứ ba, tăng cường sự tham gia của đa chủ thể đối với quản trị địa phương.
Việc nâng cao năng lực quản trị của chính quyền địa phương ở Việt Nam phải bảo đảm nguyên tắc lấy người dân làm trung tâm, dựa trên nhu cầu thực tế của người dân, làm cho tất cả người dân được hưởng thành quả từ quá trình quản trị nhà nước ở địa phương; bảo đảm hầu hết người dân có nhận thức đầy đủ về các lợi ích, người dân được khảo sát, lấy ý kiến rộng rãi trong quá trình xây dựng và triển khai các kế hoạch phát triển địa phương, trong đó có những nội dung người dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời, người dân được tạo điều kiện, được hướng dẫn để có thể tiếp cận các dịch vụ của địa phương một cách thuận tiện nhất. Sự tham gia của người dân trong quản trị địa phương thể hiện rõ tư duy và hành động của chính quyền địa phương trong việc xem người dân là chủ thể tham gia vào việc tạo ra các giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Phát huy đầy đủ vai trò của hội đồng nhân dân các cấp trong đại diện cho nhân dân địa phương; vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; vai trò của báo chí trong việc thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của quốc gia và của nhân dân; phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, những nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội…
Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của chính quyền địa phương các cấp trong các quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Cần chú trọng việc nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật kiến thức, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, rèn luyện tác phong công vụ, đạo đức nghề nghiệp và tinh thần phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của chính quyền địa phương các cấp. Việc đào tạo, bồi dưỡng phải tiếp tục được đổi mới để giúp phát triển năng lực thực thi công vụ, nhiệm vụ cho cán bộ, công chức, viên chức gắn với từng vị trí việc làm. Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình thực hiện chuyển đổi số ở Việt Nam đã và đang tác động mạnh mẽ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặt ra yêu cầu bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng về quản trị hiện đại, thích ứng với chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của chính quyền địa phương các cấp./.
---------------------
(1) Xem: Mamadsho Ilolov & Mirodasen Khudoiyev: Local Government in Tajikistan (Tạm dịch: Chính quyền địa phương ở Tajikistan), trong Igor Munteanu, Victor Popa (eds.), Developing New Rules in the Old Environment, Open Society Institute, 2001
(2) Ở Mỹ và Canada, đó là Luật về các quyền. Ở Croatia đó là đạo luật Hiến pháp về các quyền của dân tộc thiểu số. Hungari ban hành Luật về quyền của dân tộc thiểu số và dân tộc quốc gia. Ở Australia, Thụy Điển là Luật về dân tộc thiểu số và ngôn ngữ thiểu số và ngôn ngữ dân tộc. Ở Estonia, Slovenia là các luật về tự quản địa phương (Luật Tự quản văn hóa dân tộc thiểu số, Luật về các cộng đồng quốc gia tự quản)… Ở Mondova là Luật về tình trạng pháp lý riêng biệt. Ở Ukraina là Luật về chính quyền địa phương tự quản, Ukraina, Croatia với Luật về quy chế đô thị lớn. Rumani ban hành Luật về quản trị công địa phương. Serbia ban hành Luật về các hội đồng quốc gia của các dân tộc thiểu số. Trung Quốc ban hành Luật Tự trị vùng dân tộc thiểu số
(3) Ví dụ, Hiến pháp Philippin năm 1986 quy định tại Điều 2 chương X “chính quyền địa phương” về trưng cầu dân ý; Hiến pháp Nga năm 2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2008, 2014 và 2020) quy định tại Chương VIII “tự quản địa phương”, Điều 131 về tham vấn ý kiến nhân dân và Điều 130 về việc nhân dân được quyết định thông qua trưng cầu dân ý, bầu cử và các dạng thức khác của việc thể hiện ý chí một cách trực tiếp, và thông qua các cơ quan được bầu cử và các cơ quan khác của tự quản địa phương; Hiến pháp Pháp năm 1958 (các điều 72-1, 72-4, 88-5 Chương XII- Các cộng đồng lãnh thổ địa phương), Hiến pháp Italy năm 1947 quy định tại Chương V “Các vùng, tỉnh và công xã” của Phần II Tổ chức nhà nước (các điều 132, 133) về trưng cầu dân ý...
(4) ví dụ Nghị quyết số 54/2017/QH14, ngày 24-11-2017, của Quốc hội, “Về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh”, Nghị quyết số 35/2021/QH15, của Quốc hội, về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng, Nghị quyết số 38/2021/QH15, ngày 13-11-2021, của Quốc hội, về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế…, Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội, phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, Quyết định số 942/QĐ-TTg, ngày 15-6-2021, phê duyệt Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Quyết định số 662/QĐ-UBND, ngày 2-3-2021, của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, phê duyệt đề cương, nhiệm vụ xây dựng Đề án Chuyển đổi số toàn diện tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Quyết định số 2392/QĐ-UBND, ngày 3-7-2020, của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, về cập nhật Kiến trúc Chính quyền điện tử Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 2393/QĐ-UBND, ngày 03-7-2020, của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, về phê duyệt Chương trình chuyển đổi số của Thành phố Hồ Chí Minh…
(5) Xem: G. Vial: Understanding digital transformation: A review and a research agenda (Tạm dịch: Hiểu về chuyển đổi số: Đánh giá và chương trình nghiên cứu), The Journal of Strategic Information Systems, 2019
(6) Xem: S. Howes, T. K. Bishop: The hidden obstacles to government digital transformation (Tạm dịch: Những trở ngại tiềm ẩn đối với chuyển đổi của chính phủ), Institute for Government, London, 2018
(7) Xem: T. Ahveninen: Digital Transformation of Municipal Services in Finland (Tạm dịch: Chuyển đổi số của các cơ quan đô thị ở Phần Lan), 2016
(8) Xem: Giang Phạm: Chuyển đổi số phải được tiến hành thường xuyên, liên tục ở tất cả các Bộ, ngành, địa phương nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, https://sotttt.namdinh.gov.vn/portal/pages/print.aspx?p=27933
(9) Xem: Nhĩ Anh: Kiến nghị triển khai Bộ Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương trên toàn quốc từ 2023, https://vneconomy.vn/kien-nghi-trien-khai-bo-chi-so-doi-moi-sang-tao-cap-dia-phuong-tren-toan-quoc-tu-2023.htm
(10) Xem: Báo cáo xây dựng chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Bộ Thông tin và Truyền thông, 2021
(11) Xem: Việt Nam đứng thứ 9 trên toàn cầu về mức độ bị ảnh hưởng của phần mềm gián điệp, Trong thông tin điện tử Cục An toàn thông tin – Bộ Thông tin và Truyền thông, ngày 13-3-2020, https://ais.gov.vn/viet-nam-dung-thu-9-tren-toan-cau-ve-muc-do-bi-anh-huong-cua-phan-mem-gian-diep.htm
(12) Xem: Gia tăng sự cố tấn công mạng vào các hệ thống tại Việt Nam trong tháng 1, Vietnamnet, ngày 10-2-2022, https://vietnamnet.vn/gia-tang-su-co-tan-cong-mang-vao-cac-he-thong-tai-viet-nam-trong-thang-1-i404264.html
(13) Xem: Global Cybersecurity Index 2020 Measuring commitment to cybersecurity (Tạm dịch: Chỉ số an ninh mạng toàn cầu 2020 Đo lường cam kết đối với an ninh mạng), ITU Publications, International Telecommunication Union, Geneve, 2021
(14) Xem: Nguyễn Vũ Hoàng: “Việt Nam - Cải cách thể chế để phát triển bền vững - Trường hợp đồng bằng sông Cửu Long”, in trong sách: Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2014
Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài tại tòa án ở Việt Nam  (07/03/2023)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp thứ 5 của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số  (25/02/2023)
Nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong bối cảnh chuyển đổi số  (09/12/2022)
- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng với phương hướng và giải pháp trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Bảy mươi lăm năm xây dựng và phát triển
- Phát triển kinh tế số ở Trung Quốc và một số hàm ý chính sách
- Để dịch vụ logistics vùng Đông Nam Bộ phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh mới
- Hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Liên hợp quốc và những đóng góp của Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay