Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta hiện nay
TCCS - Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản. Thực chất của nguyên tắc này chính là nhằm nâng cao tính tích cực và năng lực sáng tạo của đảng viên, để các quyết định của Đảng luôn là sản phẩm kết tinh bởi trí tuệ tập thể và bảo đảm tính kỷ luật tự giác của mỗi tổ chức đảng và đảng viên khi ý chí của đa số được khẳng định và bắt buộc phải phục tùng.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định và kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đó là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, vừa bảo đảm cho Đảng có sự thống nhất về ý chí và hành động, vừa phát huy được dân chủ trong Đảng, tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng; phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành do Đại hội XI của Đảng (năm 2011) thông qua nêu rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(1).
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này được quy định tại Điều 9, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: “1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. 2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên... 3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới... 4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. 5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. 6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”(2).
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định và kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là do, trước hết, xuất phát từ bản chất của Đảng và từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin xác định, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân, là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Đảng chỉ kết nạp vào trong đội ngũ của mình những người ưu tú nhất, tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Làm cách mạng để tự giải phóng và để cải tạo xã hội cũ xấu xa thành xã hội mới tốt đẹp... là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”(3). Cách mạng muốn thắng lợi, “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(4). Để xây dựng Đảng vững mạnh, trước hết phải xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức. Tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương phải thật chặt chẽ, thống nhất, có ý thức kỷ luật cao. Đoàn kết là sức mạnh của Đảng, còn kỷ luật của Đảng là một điều kiện, nhân tố quan trọng để giữ vững sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động, nâng cao khả năng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc, hai điều đó không thể tách rời nhau trong nội bộ Đảng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên. Bởi nhiệm vụ lịch sử của Đảng rất nặng nề, phức tạp, lâu dài, luôn phải đấu tranh với các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá Đảng và chủ nghĩa xã hội. Do đó, Đảng phải được xây dựng một cách tập trung với sự thống nhất về tổ chức và hoạt động, đồng thời giữ vững kỷ luật nghiêm minh thì mới đủ sức hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ vang.
Hai là, xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, chế độ tập trung dân chủ trong Đảng chính là nguồn gốc tạo ra sức mạnh của Đảng về mặt tổ chức, là điều kiện bảo đảm cho Đảng giữ vững sự thống nhất về ý chí và hành động.
Luận giải về vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đều khẳng định, nguyên tắc này có tác dụng quan trọng đối với việc nâng cao tính tích cực và sáng kiến của đảng viên trong cuộc đấu tranh cách mạng vì sự nghiệp của Đảng, để các quyết định của Đảng trở thành sản phẩm trí tuệ tập thể của tất cả các đảng viên và của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, làm tăng thêm tính kỷ luật, tính tự giác vô sản của Đảng. Dân chủ trong Đảng hoàn toàn đối lập với dân chủ hiểu theo quan điểm của chủ nghĩa cơ hội. Nếu các phần tử cơ hội chủ nghĩa núp dưới chiêu bài “dân chủ” để tấn công vào chế độ tập trung và âm mưu đòi tự do bè phái trong Đảng, thì ngược lại, những người cộng sản đấu tranh để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của đảng viên, giáo dục cho đảng viên có ý thức làm chủ trong Đảng. Tập trung trong Đảng là biểu hiện của sự lãnh đạo tập thể, bảo đảm cho các chủ trương của Đảng được đúng đắn, trên cơ sở tập trung được kinh nghiệm và ý kiến của mọi đảng viên, hạn chế được những sai lầm chủ quan, phiến diện, tránh được những hiện tượng độc đoán, chuyên quyền. V.I. Lê-nin viết: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(5); “Không có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu và với lối rập khuôn máy móc”(6). V.I. Lê-nin khẳng định, đây là nguyên tắc tổ chức duy nhất đúng của đảng vô sản kiểu mới, là nguyên tắc phân biệt chính đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân với các đảng phái khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải bản chất của tập trung dân chủ: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(7). Tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng, không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn khổ, có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu quả cao trong lãnh đạo và quản lý. Vì vậy, cần phải có sự kết hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc bảo đảm cả hai yếu tố này trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý nhà nước. Dân chủ phải được bảo đảm bởi tập trung và tâp trung phải dựa trên cơ sở dân chủ. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo môi trường cho phát sinh cửa quyền, tham nhũng. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cá nhân chủ nghĩa.
Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Một người dù tài giỏi bao nhiêu cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể hiểu được cặn kẽ mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì vậy, để lãnh đạo được sát, được đúng, cần phải có sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều người, giúp chỉ ra được các mặt của vấn đề, qua đó, sẽ hiểu vấn đề một cách toàn diện và vì vậy, mới có thể lãnh đạo thành công trong việc giải quyết vấn đề đó. Khi tập thể đã bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì giao cho một người phụ trách chính. Làm như vậy, kế hoạch mới được thực hiện đầy đủ, không bị chồng chéo, tránh dựa dẫm, công việc sẽ đạt kết quả cao, có cơ sở để biểu dương những người làm giỏi, phê bình những người làm kém, xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân. “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”(8). Phải tránh dân chủ theo kiểu tùy tiện, phân tán, vô tổ chức và hình thức. Như thế là rất nguy hại, làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi tổ chức đảng.
Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản. Một số nước nghiêng về tập trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong Đảng, xuất hiện hàng loạt các sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một số nước lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô chính phủ. Những sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã làm tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cản trở sự phát triển của các nước đó.
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu được thành lập đến nay, trải qua hơn 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ, từ đó tập hợp, đoàn kết, phát huy bản lĩnh, trí tuệ, tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm hạt nhân quy tụ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Bước tiến mới trong cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
Trải qua hơn 90 năm xây dựng và phát triển, đặc biệt là 35 năm đổi mới, Đảng ta luôn kiên trì giữ vững và có nhiều thành tựu trong việc cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ trên tất cả lĩnh vực, hoạt động. Cụ thể là:
1- Trong xây dựng Cương lĩnh, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng: Từ khi thành lập Đảng, đặc biệt là trong những năm đổi mới, những quyết định lớn, đường lối, chủ trương của Đảng, từ dự thảo Cương lĩnh đến dự thảo các văn kiện Đại hội Đảng đều được tổ chức thảo luận dân chủ rộng rãi, lấy ý kiến của các tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở trở lên, lấy ý kiến góp ý của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân dân, được Trung ương thảo luận kỹ lưỡng, cân nhắc nhiều mặt, phân tích thấu đáo, nhất là những vấn đề có ý kiến trái chiều trước khi quyết định. Những vấn đề mới, khó, phức tạp được tổ chức hội thảo, tọa đàm để thảo luận, trao đổi kỹ, lấy ý kiến chuyên gia trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương quyết định. Từ sau Đại hội VIII của Đảng, đã thành lập Hội đồng Lý luận Trung ương - có chức năng tư vấn lý luận chính trị, mở rộng dân chủ trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn khó, hóc búa, nhờ vận dụng đúng đắn và phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, đã được các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng nghiên cứu và quyết định, như: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân; chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; đẩy mạnh hội nhập quốc tế,... Những vấn đề mới, khó thì thực hiện thí điểm để tổng kết, rút kinh nghiệm, như thực hiện đầu tư đối tác công - tư; xây dựng chính quyền đô thị; giao quyền tự chủ cho thành phố trực thuộc Trung ương;... Thực tiễn cho thấy, Đảng ta càng phát huy dân chủ rộng rãi thì càng bảo đảm tính tập trung cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong quyết định của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, như Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp. Dân chủ càng được mở rộng thì chế độ tập trung trong Đảng càng được đề cao; dân chủ phải đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, góp phần tạo nên sự thống nhất về quan điểm, chủ trương trong lãnh đạo, chỉ đạo.
Đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; điều kiện xã hội đã thay đổi trên nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, con người so với thời kỳ chiến tranh, thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như thời kỳ bao cấp, những năm đầu đổi mới. Vì vậy, việc thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ hiện nay có những yêu cầu và bước phát triển mới so với các thời kỳ trước. Hiện nay, dân chủ là nhu cầu thiết yếu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời là nhu cầu tự thân để phát triển, hoàn thiện của một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhằm bảo đảm thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện mới; đòi hỏi phát huy dân chủ mạnh mẽ trong Đảng và sự sáng tạo, trí tuệ của mọi đảng viên để các quyết định của tập thể đúng đắn, có sự thống nhất cao. Việc thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là một đòi hỏi tất yếu trong tổ chức và hoạt động của Đảng hiện nay, mà còn là một nguyên tắc cốt yếu trong quản lý nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
2- Trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng: Sinh hoạt của các cấp ủy và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ, cởi mở, các cấp ủy viên mạnh dạn trình bày ý kiến riêng của mình; tăng cường các hình thức giao ban, hội nghị, tọa đàm, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ chủ chốt với đảng viên và nhân dân... Từ sau Đại hội IX của Đảng, chế độ thực hành dân chủ trong Đảng ngày càng được mở rộng, đã thực hiện việc phê bình, chất vấn tại các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hoặc trong thời gian giữa hai kỳ họp (Quy định số 23-QĐ/TW, ngày 15-1-2002, của Bộ Chính trị khóa IX, “Về thực hiện việc phê bình, chất vấn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 8-6-2012, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về thực hiện việc chất vấn trong Đảng tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương”;...). Việc chất vấn và trả lời chất vấn được mở rộng tới hội nghị cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và áp dụng đối với toàn thể đảng viên, cấp ủy viên, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, nhằm phát huy dân chủ, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, nâng cao trách nhiệm và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên (Quy chế chất vấn trong Đảng, ban hành kèm theo Quyết định số 158-QĐ/TW, ngày 12-5-2008, của Bộ Chính trị khóa X). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp”(9). Bộ Chính trị, Ban Bí thư thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo công việc đã làm trước Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương; ban thường vụ báo cáo cấp ủy cấp mình kết quả giải quyết công việc giữa hai kỳ hội nghị cấp ủy. Định hình chế độ giao ban định kỳ hằng tháng của lãnh đạo chủ chốt Đảng và Nhà nước, của thường trực cấp ủy, là cơ sở cho thảo luận thống nhất và phát huy dân chủ trong Đảng, từ Bộ Chính trị đến thường vụ cấp ủy, sự lãnh đạo, điều hành nhất quán của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền địa phương,...
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, đã ban hành Quy chế làm việc mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương (Quyết định số 168 QĐ-TW, ngày 28-12-2018, của Ban Bí thư khóa XII, “Về việc ban hành quy chế làm mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương”), xác định rõ chế độ công tác, thẩm quyền, trách nhiệm của thường trực, thường vụ cấp ủy, nhất là của bí thư cấp ủy đối với cấp ủy, khắc phục tình trạng lạm dụng quyền lực của người đứng đầu cấp ủy hoặc núp bóng thường vụ cấp ủy quyết định vượt thẩm quyền.
3- Trong công tác cán bộ, nhất là lựa chọn đảng viên để giới thiệu ứng cử, bầu vào các chức danh lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể chế hóa, cụ thể hóa trong Quy chế bầu cử trong Đảng, thực hiện từ chi bộ đến Ban Chấp hành Trung ương (Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng”); Quy định về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử (Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19-12-2017, của Bộ Chính trị khóa XII), xác định quy trình 5 bước lựa chọn nhân sự với những người tái cử và lần đầu tham gia cấp ủy, hướng theo cơ cấu, tiêu chuẩn của thường vụ cấp ủy, vừa phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể cấp ủy, vừa phát huy dân chủ rộng rãi trong cán bộ chủ chốt, đảng viên, vừa đề cao trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác quản lý cán bộ. Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã được tổ chức thành công, đúng kế hoạch, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong toàn Đảng, toàn dân, có nguyên nhân quan trọng là đã thực hiện quy trình 5 bước lựa chọn nhân sự, phát huy đầy đủ, kịp thời sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên với đề cao trách nhiệm cấp ủy từng cấp.
4- Trong giải quyết mối quan hệ giữa bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của cấp trên và phát huy quyền chủ động của cấp dưới: Để thực hiện hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ, chúng ta đã đẩy mạnh việc tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị, giảm cấp trung gian, thực chất là giảm bớt tình trạng phân tán quyền lực vào các tầng nấc trung gian, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung và làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cấp. Tính đến ngày 31-12-2019, bộ máy hệ thống chính trị đã giảm được 4 đầu mối trực thuộc Trung ương, 97 đầu mối trực thuộc cấp tỉnh; 6 tổng cục và tương đương; 19 cục, vụ, 90 đơn vị sự nghiệp công lập ở Trung ương; 3.768 phòng, đội và tương đương; 4.963 đơn vị sự nghiệp công lập, 3.646 đầu mối trong các đơn vị sự nghiệp công lập ở địa phương...; giảm 10.386 cấp trưởng, cấp phó ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức hành chính cấp tỉnh, cấp huyện; 3.306 cấp trưởng, 4.080 cấp phó ở các đơn vị sự nghiệp công lập địa phương(10). Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phát huy dân chủ đúng hướng. Phân cấp, phân quyền ngày càng rõ hơn, tạo điều kiện cho cấp dưới phát huy vai trò chủ động. Tình trạng cục bộ, mất đoàn kết trong cán bộ, đảng viên được chấn chỉnh, xử lý kịp thời.
Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Vẫn còn biểu hiện dao động, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Còn tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, không chấp hành nghiêm chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi còn có biểu hiện gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Còn thiếu những quy chế xác định trách nhiệm cụ thể, dẫn đến vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích được những cán bộ, đảng viên nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: Ở một số tổ chức đảng, vẫn có tình trạng một số cấp ủy viên chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa thật sự tôn trọng và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc. Còn tình trạng dân chủ hình thức, thống nhất một chiều, thiếu sự tranh luận, thảo luận thấu đáo hoặc hiểu không đúng nguyên tắc này, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ ở một số nơi. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trên thực tế ở nhiều nơi còn hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi có sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, vô trách nhiệm, trì trệ, lợi dụng cơ chế tập thể để thực hiện ý đồ cá nhân, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến tháng 8-2020, trong tổng số gần 40 cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng chiếm tới 60,5%, dẫn đến cấp ủy buông lỏng vai trò lãnh đạo; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu giảm sút; nhiều tổ chức đảng rơi vào dân chủ hình thức, đoàn kết xuôi chiều; người đứng đầu lạm quyền, vượt thẩm quyền, gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành, vi phạm nghiêm trọng các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, nhiều nơi rất nghiêm trọng”(11). Vi phạm quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ “liên quan đến cán bộ lãnh đạo ở nhiều cương vị, từ Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang đến đảng viên được giao thực hiện chức trách, nhiệm vụ, công vụ; cán bộ đương chức hoặc đã nghỉ hưu nhưng vi phạm khi còn đang công tác; vi phạm xảy ra ở nhiều loại hình tổ chức đảng,... dẫn đến vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước trong nhiều lĩnh vực”(12).
Nắm vững và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong thời gian tới
Trong thời gian tới, để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tình hình mới; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc này. Mỗi tổ chức đảng và đảng viên phải nhận thức đúng đắn và thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Theo đó, dân chủ phải đi đôi với tập trung; phát huy dân chủ phải đồng thời gắn liền với chống dân chủ cực đoan, dân chủ không tuân theo kỷ cương, phép nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng Điều lệ Đảng và trong mối quan hệ đồng bộ với các nguyên tắc khác, như tự phê bình và phê bình, đoàn kết, thống nhất trong Đảng...
Hai là, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng. Cần cụ thể hóa các nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được nêu trong Điều lệ Đảng bằng những văn bản hướng dẫn cụ thể để các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện. Cấp ủy, tổ chức đảng rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc cho phù hợp, bảo đảm đồng bộ, thống nhất và liên thông với quy chế làm việc của cấp ủy cấp trên và quy định của Trung ương có liên quan; xây dựng quy chế tổ chức và quản lý sinh hoạt tư tưởng; quy trình chuẩn bị, thảo luận, thông qua nghị quyết của các cấp ủy; quy định về việc xem xét, kết luận các đơn, thư khiếu nại, tố cáo...
Ba là, mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Xây dựng các thiết chế, cơ chế cho phép phát huy thật sự mạnh mẽ dân chủ, trước hết là bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là quyền được thảo luận, chất vấn, phê bình, thông tin, bảo lưu ý kiến. Đồng thời, với mở rộng dân chủ, phải củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải nghiêm túc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nói và làm theo nghị quyết của Đảng.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Xử lý nghiêm, kịp thời những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; công khai kết quả xử lý. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống... Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế và các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm.
Năm là, đề cao, phát huy vai trò của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với giữ vững và chủ động, tích cực phòng, chống tình trạng xa rời nguyên tắc này. Làm rõ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là thực hiện các nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung./.
-------------------------
(1) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần II (Đại hội X, XI, XII), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 518
(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần II (Đại hội X, XI, XII), Sđd, tr. 523 - 524
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr . 601
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289
(5), (6) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 36, tr. 185, 186
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 263 – 264
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 620
(9) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 30
(10) Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), Hà Nội, 4-2020, tr. 255
(11), (12) Phạm Thái Hà: “Chấn chỉnh vi phạm về quy chế làm việc qua kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm”, Trang thông tin điện tử Ủy ban Kiểm tra Trung ương, http://ubkttw.vn/nghien-cuu-trao-doi/-/asset_publisher/bHGXXiPdpxRC/content/chan-chinh-vi-pham-ve-quy-che-lam-viec-qua-kiem-tra-khi-co-dau-hieu-vi-pham, ngày 12-8-2020
Bế mạc Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII  (18/12/2020)
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch nước Lê Đức Anh  (02/12/2020)
Thể chế hóa, cụ thể hóa nội dung hiến định: Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình  (20/10/2020)
Tổ chức trọng thể Lễ truy điệu nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu  (15/08/2020)
Thông cáo đặc biệt về Lễ tang nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu  (10/08/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm