Tỉnh Đồng Nai tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
TCCS - Tỉnh Đồng Nai đã nghiên cứu và ứng dụng mạnh mẽ vào thực tiễn lĩnh vực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư có chọn lọc, ưu tiên các dự án sử dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, ít thâm dụng lao động... để hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế toàn diện, bền vững. Thời gian tới, tỉnh sẽ tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng để từng bước hiện thực hóa mục tiêu, khát vọng này.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng đúng hướng mang lại hiệu quả tích cực
Suốt 2 thập niên qua, tỉnh Đồng Nai có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, bình quân giai đoạn 2001 - 2005 là 12,86%, giai đoạn 2005 - 2010 là 13,55%, giai đoạn 2011 - 2015 là 8%, giai đoạn 2015 - 2020 là 7,08%. Xét về giá trị tuyệt đối, theo thời gian quy mô GRDP liên tục tăng (năm 2001 là 15.257 tỷ đồng, năm 2005 là 30.897 tỷ đồng, năm 2010 là 76.024 tỷ đồng, năm 2015 là 234.267 tỷ đồng, năm 2020 là 366.171 tỷ đồng). Để có được kết quả tích cực trên, tỉnh Đồng Nai đã huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực lao động, vốn và khoa học - công nghệ cho tăng trưởng. Việc áp dụng rộng rãi tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các ngành sản xuất có trình độ công nghệ cao, tạo ra giá trị gia tăng lớn và khả năng cạnh tranh cao.
Trong phát triển kinh tế, tỉnh Đồng Nai đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, đặc biệt là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, nguồn vốn này luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần thành công vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Với chủ trương, cơ cấu kinh tế vùng chuyển dịch theo hướng phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương, hình thành các vùng chuyên môn hóa nên tỉnh đã tạo được năng lực cạnh tranh cao so với các tỉnh khác trong nhiều ngành kinh tế, như nông nghiệp (cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi...); công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ, gia công cơ khí...
Cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực (tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm, thủy sản). Năm 2016, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 11,76%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 58,33%; khu vực dịch vụ chiếm 22,24% thì đến năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 9,24%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 60,52%; khu vực dịch vụ chiếm 22,57%.
Kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh được chú trọng nâng cấp, phát triển đồng bộ, nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cụ thể:
Hạ tầng giao thông có nhiều bước chuyển biến tích cực. Các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đã được nâng cấp, cải tạo kịp thời, phong trào xã hội hóa giao thông nông thôn được triển khai sâu, rộng, hiệu quả đã góp phần tích cực làm thay đổi diện mạo nông thôn, từng bước xóa bỏ khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Tỉnh đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan triển khai và hoàn thành đưa vào sử dụng một số dự án: Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Quốc lộ 1 - đoạn tránh thành phố Biên Hòa, Cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết... Đồng thời, tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư để hoàn thành bàn giao mặt bằng phục vụ Dự án sân bay quốc tế Long Thành; đang triển khai các dự án: Đường vành đai 3, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, Cầu Phước An, đường T1, T2 kết nối sân bay Long Thành...
Hạ tầng cung cấp điện được phủ rộng. Lưới điện trung thế, hạ thế đã phủ kín các khu vực trên địa bàn tỉnh, tỷ lệ hộ trong vùng quy hoạch dân cư có sử dụng điện tăng dần qua các năm. Tỷ lệ hộ dân có điện hằng năm cũng tăng lên: năm 2016 đạt tỷ lệ 99,93%, đến năm 2020 đạt 99,99%.
Hạ tầng đô thị được đầu tư thích đáng, các đô thị cơ bản được nâng hạng. Toàn tỉnh có 11 đô thị, trong đó có 1 đô thị loại I trực thuộc tỉnh, 1 đô thị loại III, 2 đô thị loại IV và 7 đô thị loại V. Các sở, ngành và địa phương tổ chức triển khai lập Chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh và cho từng đô thị để làm cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống hạ tầng đô thị đạt tiêu chuẩn cơ bản của từng loại đô thị, đồng thời lồng ghép với các chương trình, kế hoạch khác trên địa bàn nhằm từng bước chỉnh trang đô thị, hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm các đô thị phát triển một cách bền vững, hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.
Hạ tầng thông tin truyền thông được mở rộng khắp. Ứng dụng công nghệ thông tin đã trở thành hoạt động thường xuyên trong mọi lĩnh vực và phổ biến trong xã hội, gắn kết chặt chẽ với cải cách hành chính trong cơ quan quản lý nhà nước các cấp, các ngành các lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội. Hạ tầng mạng viễn thông được phát triển, xây dựng mới và phủ rộng khắp các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Internet băng rộng cáp quang đã được triển khai đến 100% các ấp, thôn/khu phố. 100% các cơ quan kết nối mạng nội bộ giữa các phòng, ban trực thuộc, góp phần hình thành hệ thống mạng riêng từ tỉnh đến huyện bảo đảm an toàn thông tin, tạo hạ tầng triển khai các ứng dụng từ tỉnh đến huyện và kết nối liên thông đến các ngành, các cấp. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 169/170 ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn kết nối Mega Wan và Metro Wan với băng thông 2M phục vụ cải cách hành chính một cửa liên thông (riêng xã Đắc Lua sử dụng đường truyền internet của Bưu chính Viễn thông tỉnh Lâm Đồng).
Hạ tầng văn hóa xã hội được quan tâm đầu tư. Hệ thống mạng lưới trường học, cơ sở y tế phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng hiệu quả nhu cầu của người dân. Thực hiện tăng nguồn lực đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục - đào tạo từ mầm non đến bậc đại học. Hạ tầng y tế đã được đầu tư phát triển đồng bộ từ tuyến tỉnh đến tuyến y tế cơ sở. Y tế tư nhân giai đoạn 2012 - 2020 phát triển nhanh góp phần rất lớn vào sự phát triển chung của ngành y tế. Hạ tầng khoa học - công nghệ có sự phát triển mạnh mẽ. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, phát triển công nghệ chuyển biến tích cực theo hướng gắn chặt hơn với sản xuất, kinh doanh và hoạt động quản lý, giai đoạn 2015 - 2022, tỉnh đã tổ chức triển khai thực hiện 120 đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp tỉnh và cấp cơ sở.
Một số những hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng
Thứ nhất, kinh tế tăng trưởng cao, nhưng chưa thực sự bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Chất lượng thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) không cao, thu hút nhiều, nhưng chủ yếu thu hút các dự án hỗn hợp, hàm lượng khoa học - công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động phổ thông nên giá trị gia tăng tạo ra thấp dẫn đến số lượng đóng góp vào ngân sách chưa cao. Các khu công nghiệp phát triển nhanh, nhưng do thu hút đầu tư chưa được chọn lọc dẫn đến tình trạng quỹ đất công nghiệp sẵn sàng cho thu hút đầu tư không còn nhiều, khó thu hút các nhà đầu tư lớn với hàm lượng khoa học - công nghệ cao.
Thứ hai, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tuy có tập trung đầu tư, nhưng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tiến độ đầu tư các tuyến đường giao thông kết nối trên địa bàn tỉnh và kết nối vùng còn chậm. Hạ tầng đô thị, đặc biệt là hạ tầng cấp thoát nước còn hạn chế. Hạ tầng các khu công nghiệp chưa hoàn chỉnh, đặc biệt là các hạ tầng về môi trường và các dịch vụ còn thiếu đồng bộ.
Thứ ba, ứng dụng khoa học - công nghệ vào gia tăng giá trị sản phẩm, tăng năng suất lao động và chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng hiện đại hóa còn chậm. Tiềm lực khoa học - công nghệ của tỉnh còn hạn chế, việc chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh ở các doanh nghiệp chậm chuyển biến, chưa có nhiều doanh nghiệp khoa học - công nghệ, trình độ kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp còn thấp, sự kết nối giữa nông nghiệp và công nghiệp chế biến chưa vững chắc, còn thiếu đội ngũ chuyên gia, lao động kỹ thuật cao đáp ứng cho một số ngành, nghề có trình độ công nghệ cao, kỹ thuật cao và kinh tế số.
Thứ tư, nguồn lực tài chính chưa đủ để đầu tư phát triển. Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội từng giai đoạn thì nguồn lực tài chính là một trong những yếu tố quyết định. Đồng Nai trong nhiều năm luôn là đơn vị đóng góp ngân sách nhà nước lớn, nhưng nguồn lực tài chính được giữ lại còn chưa tương xứng, chỉ bảo đảm khoảng 10% nhu cầu đầu tư các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, cấp bách, chưa bảo đảm để đầu tư hạ tầng đồng bộ, hiện đại, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Thứ năm, sự gia tăng nhanh chóng dân số cơ học và người lao động nhập cư trên địa bàn dẫn đến khó khăn trong giải quyết an sinh xã hội cho người dân. Thực trạng số lượng lớn người lao động từ các địa phương khác chuyển về Đồng Nai sinh sống và làm việc, dẫn đến tình trạng quá tải trong các hạ tầng xã hội: giáo dục, y tế, các thiết chế văn hóa, thể thao, nhu cầu nhà ở xã hội và các tác động tiêu cực đến môi trường sống...
Tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng để hướng đến mục tiêu phát triển bền vững
Khát vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng Nai là xây dựng tỉnh sớm trở thành vùng đất giàu đẹp và văn minh, hướng tới phát triển bền vững. Vì vậy, tỉnh sẽ gắn kết hài hòa, hợp lý giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội, môi trường. Cụ thể là chăm lo phát triển toàn diện cho con người, nâng cao chất lượng sống của nhân dân với quan điểm: Mọi kết quả phát triển kinh tế, mọi nguồn lực tạo ra trong hoạt động kinh tế đều sử dụng phục vụ cho mục tiêu chăm lo cho người dân, cho mục tiêu phát triển con người; thúc đẩy phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, nhà ở xã hội và đặc biệt là chất lượng môi trường sống của người dân. Để thực hiện hiệu quả quan điểm chỉ đạo mà Nghị quyết Đại hội XI của tỉnh đã đề ra: Đảng bộ tỉnh Đồng Nai có trách nhiệm lãnh đạo bảo đảm sự phát triển toàn diện của tỉnh, thực hiện khát vọng trở thành tỉnh phát triển trong nhóm đầu của cả nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, quan tâm bảo vệ môi trường; gắn chặt phát triển kinh tế với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng - an ninh, tỉnh tập trung thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, tính tự chủ và khả năng thích ứng với môi trường của kinh tế tỉnh Đồng Nai; gắn với đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; đổi mới sáng tạo để phát triển kinh tế tuần hoàn, phát triển xanh, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số. Thúc đẩy phát triển các mô hình kinh tế mới, như mô hình kinh tế đêm, kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế sông...
Hai là, phát triển các ngành công nghiệp - xây dựng có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp sạch đi đôi với bảo vệ môi trường. Phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, ứng dụng công nghệ cao, dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại. Tập trung phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng trên địa bàn tỉnh; trong đó, phát triển du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp, du lịch tâm linh, về nguồn kết hợp khai thác các giá trị lịch sử, văn hóa, sản phẩm của địa phương và đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án phát triển du lịch có quy mô lớn, chất lượng cao gắn với việc đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật bên ngoài các khu, điểm du lịch, nhất là hạ tầng giao thông kết nối. Tiếp tục triển khai kế hoạch về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp theo hướng hữu cơ gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm gắn với đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp; chú trọng, lựa chọn nhà đầu tư có thực lực xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, hợp tác trong sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản, nâng cao giá trị kinh tế được tạo ra trên 1 đơn vị đất nông nghiệp; gắn phát triển nông nghiệp với nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn và nâng cao chất lượng các xã nông thôn mới.
Ba là, kiểm soát hiệu quả thu hút đầu tư, cơ cấu lại mô hình kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển theo chiều sâu. Nâng cao đạo đức công vụ trong đón tiếp, thực hiện thủ tục, phê duyệt các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh. Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, tăng cường thu hút đầu tư xã hội, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chất lượng cao. Thu hút đầu tư có chọn lọc, lựa chọn nhà đầu tư tốt nhất, dự án tốt nhất, ý tưởng tốt nhất; dự án có công nghệ tiên tiến, sử dụng lao động có hàm lượng chất xám cao, giá trị gia tăng cao, sử dụng quỹ đất ít và thân thiện với môi trường, đóng góp nhiều cho ngân sách tỉnh.
Bốn là, huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho phát triển kinh tế, song song với thúc đẩy triển khai kế hoạch huy động các nguồn lực tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là hạ tầng giao thông đô thị, nông thôn và giao thông kết nối vùng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025. Chú ý các dự án thoát nước, xử lý ngập úng tại các đô thị, từng bước xây dựng và phát triển, thay đổi diện mạo các đô thị theo hướng thông minh, hiện đại, mở rộng không gian xanh, không gian công cộng phục vụ nhân dân.
Năm là, thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và tập trung đầu tư các khu tái định cư. Đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng các dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh, nhất là các dự án giao thông trên địa bàn thành phố Biên Hòa và một số tuyến đường kết nối liên huyện, kết nối vào Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố lân cận triển khai đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng các dự án giao thông trọng điểm quốc gia, dự án kết nối vùng.
Thứ sáu, tiếp tục tìm kiếm những động lực, mô hình tăng trưởng mới đủ để tạo ra đột phá và dẫn dắt sự tăng trưởng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân trong nước và kinh tế hợp tác. Đô thị hóa phải trở thành động lực phát triển quan trọng của tỉnh Đồng Nai, tương xứng với sự phát triển của công nghiệp, kiến tạo môi trường sống tốt hơn cho người dân. Thực hiện đổi mới tư duy về cách làm, cách phân bổ nguồn lực trên cơ sở tạo động cơ khuyến khích cán bộ hành động, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá./.
Thực hiện bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vì mục tiêu phát triển bền vững ở nước ta hiện nay  (30/05/2023)
Nam Định: Tiếp tục khơi dậy và phát huy nguồn lực văn hóa, thúc đẩy quá trình phát triển toàn diện và bền vững  (28/05/2023)
Đa dạng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam: Nguồn lực để phát triển bền vững  (27/05/2023)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển