Hoàn thiện thể chế về thu hút, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước
TCCS - Thể chế và nguồn lực không phải là vấn đề mới nhưng nhận thức về vấn đề này còn khác nhau, vì vậy, dẫn tới tổ chức thực hiện, hành động khác nhau. Việc thống nhất được nhận thức sẽ giúp cho huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực không chỉ bảo đảm hiệu quả mà còn là sự công bằng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức về vấn đề thể chế và nguồn lực một quốc gia, mối quan hệ giữa vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường và vai trò của Nhà nước bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
Về khái niệm thể chế, có ý kiến cho rằng thể chế là cơ chế, là hệ thống các quy định pháp luật, các chính sách; hoặc thể chế chỉ là vấn đề tổ chức, cơ cấu tổ chức. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ, buộc mọi người phải tuân theo”(1). Còn theo sổ tay thuật ngữ quan hệ quốc tế thì: “Thể chế là một cơ quan, tổ chức công với các cơ cấu và chức năng được định sẵn một cách chính thức nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động nhất định áp dụng chung cho toàn bộ dân cư”(2). Trong bài viết này, thể chế được quan niệm là tập hợp những quy tắc chính thức, các quy định không chính thức hay nhận thức chung có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm, định hướng hoặc chi phối sự tương tác của các chủ thể chính trị với nhau trong lĩnh vực nhất định. Các thể chế được tạo ra và bảo đảm thực hiện bởi cả Nhà nước và các tác nhân ngoài Nhà nước. Như vậy có thể hiểu, các quy tắc chính thức là Hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật, điều ước quốc tế...; các quy tắc không chính thức là quy tắc đạo đức, truyền thống, tập quán, tín ngưỡng...; các quy định nội bộ, gồm điều lệ, quy chế của tổ chức, doanh nghiệp...; lĩnh vực của thể chế, gồm thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa...; đối tượng thực hiện thể chế là Nhà nước và các tác nhân ngoài Nhà nước, gồm tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân... không nằm trong hệ thống Nhà nước.
Về khái niệm nguồn lực, cũng có các cách hiểu khác nhau; có cách hiểu đơn giản là nội lực bên trong về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn lực lao động; thậm chí là các đường lối chính trị, chính sách đúng đắn cũng có thể coi là nguồn lực. Nhưng nội hàm như vậy thì lại thiếu đi một yếu tố là nguồn lực từ bên ngoài không phải của quốc gia, song lại là sức mạnh không thể không thu hút, như vốn đầu tư của nước ngoài, lao động nước ngoài, tri thức nhân loại, các tiến bộ khoa học - kỹ thuật của các quốc gia tiên tiến, thậm chí là các chính sách của các tổ chức, các định chế trên thế giới cũng có thể coi là nguồn lực bên ngoài.
Nhưng nếu chỉ bao hàm các nội lực bên trong và sức mạnh bên ngoài thì vẫn còn thiếu một thành tố quan trọng đó là tiềm năng, thế năng và sức mạnh sẽ hình thành trong tương lai của một quốc gia, như các tài sản vô hình và tài sản hữu hình hình thành trong tương lai của quốc gia đó, bao gồm: Định hướng phát triển, quy hoạch phát triển, những lợi thế đem lại nhờ các hiệp định thương mại, khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh,... chuỗi giá trị, thương hiệu quốc gia, địa phương, doanh nghiệp.
Do vậy, nguồn lực của một quốc gia phải là sức mạnh tổng hợp được tích lũy từ điều kiện địa lý, lịch sử văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn lực lao động, các tài sản hiện có khác và tiềm năng, thế năng của những tài sản hình thành trong tương lai của một quốc gia, bao gồm cả nội lực bên trong và ngoại lực từ bên ngoài mà quốc gia đó có thể huy động.
Từ việc thống nhất nhận thức về cách hiểu trên, có thể hiểu nội hàm: “Thể chế thu hút, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực” là những cơ chế, chính sách, các quy định pháp luật của Nhà nước, quy chế, quy tắc của các tổ chức, doanh nghiệp, buộc các cá nhân sống và làm việc ở trong quốc gia, tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp phải tuân thủ thông qua các công cụ quản trị, quản lý, điều tiết để phân bổ, sử dụng các nguồn lực của quốc gia (vị trí địa lý, lịch sử - văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, vị thế, uy tín, thương hiệu của quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm và các đối tượng sở hữu trí tuệ khác), các tài sản hình thành trong tương lai, các nguồn lực bên ngoài (vốn đầu tư nước ngoài, nguồn nhân lực nước ngoài, tri thức và sản phẩm khoa học kỹ thuật...) để phân bổ hợp lý theo cơ chế thị trường, theo sự định hướng và điều tiết của Nhà nước nhằm phát triển kinh tế - xã hội đem lại hiệu quả nhất.
Về vấn đề sử dụng cơ chế thị trường như thế nào và vai trò của Nhà nước như thế nào cho hợp lý để thu hút, phân bổ và sử dụng nguồn lực. Đây là vấn đề cần làm rõ quan điểm để có thể hoàn thiện thể chế thu hút, phân bổ và sử dụng nguồn lực.
Vấn đề huy động và phân bổ nguồn lực luôn là nội dung quan trọng được thể hiện trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng về kinh tế. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 cũng chỉ rõ: “Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất”; đồng thời: “tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế”. Có thể nói, Cương lĩnh và Chiến lược 10 năm 2011 - 2020 khẳng định vai trò quan trọng của Nhà nước và lực lượng vật chất của Nhà nước trong phân bổ, sử dụng nguồn lực. Điều đó tiếp tục được khẳng định thêm trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI là: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thức kinh tế thị trường vừa tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”; khẳng định phải coi trọng cả hai là sự vận hành theo cơ chế thị trường và sự điều tiết, dẫn dắt, chi phối của Nhà nước theo nguyên tắc, bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XII có những điều chỉnh nhất định, làm rõ hơn, song vẫn bám sát vào Cương lĩnh, thể hiện rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ và đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Nghị quyết khẳng định: “Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất, các nguồn lực của Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”. Bên cạnh đó, Nghị quyết còn khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.
Như vậy có sự nhìn nhận về vai trò của kinh tế thị trường đóng vai trò chủ yếu, động lực chủ yếu, còn Nhà nước đóng vai trò định hướng. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII gửi lấy ý kiến góp ý các đảng bộ, cơ bản vẫn bám sát, kế thừa Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội XI, XII nêu rất rõ về vai trò của Nhà nước và khẳng định “thị trường đóng vai trò chủ yếu trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ” nhưng đã xuất hiện cụm từ: “Thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực” (trang 38, mục 2-IV Dự thảo Báo cáo chính trị). Như vậy là có sự thay đổi, từ Đại hội XI nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong phân bổ, sử dụng nguồn lực đến Đại hội XII khẳng định thị trường là chủ yếu và theo Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII thì “thị trường là quyết định” trong huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực. Đây là sự phát triển của tư duy hay là thay đổi nguyên tắc về quan điểm huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực cần được làm rõ.
Chúng ta nên cân nhắc việc để thị trường quyết định việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực. Có thể thấy sản phẩm của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay là tạo ra một xã hội tiêu dùng, kích thích nhu cầu tiêu dùng cá nhân của con người lên tới mức đỉnh điểm, vượt quá khả năng đáp ứng có giới hạn của tài nguyên, môi trường và những nhu cầu cấp thiết cho con người dẫn đến sự lãng phí tài nguyên và hủy hoại môi trường. Được sự kích hoạt này của xã hội tiêu dùng, cơ chế thị trường phát huy theo cấp số nhân, cùng với đó nếu để thị trường quyết định thì các nguyên tắc của kinh tế thị trường sẽ tự động phân phối nguồn lực, sẽ do quan hệ cung cầu điều tiết, giá cả thị trường quyết định, mục tiêu tối đa của nó là tối ưu hóa lợi nhuận, lợi nhuận là động lực... Nguồn lực sẽ được huy động, phân bổ và sử dụng vào lĩnh vực, vào khâu, vào sản phẩm đem lại lợi nhuận cao nhất, những nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp sẽ không có trên bản đồ của cơ chế thị trường. Những mặt trái của kinh tế thị trường sẽ phát sinh, cùng với một xã hội tiêu dùng sẽ là sự khủng hoảng, mất cân đối toàn diện không chỉ là kinh tế mà cả môi trường và cuối cùng là xã hội. Những định hướng của chủ nghĩa xã hội sẽ bị lu mờ trước sức mạnh của kinh tế thị trường, khiến bóc lột quá mức, phân hóa giàu nghèo, sử dụng quá mức và lãng phí tài nguyên; phúc lợi xã hội và an sinh xã hội sẽ không được bảo đảm. Đồng nghĩa với vai trò của Nhà nước về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cùng với các công cụ điều tiết khác của Nhà nước, như thuế, giá cả, ngân sách đầu tư cho vùng khó khăn, yếu thế dần dần sẽ bị lái theo mục tiêu lợi nhuận; các chính sách của Nhà nước cũng sẽ phục vụ cho mục tiêu này. Câu chuyện gì sẽ diễn ra, đơn cử như việc xảy ra đại dịch COVID-19 giữa các nước thực hiện cơ chế thị trường thuần túy và các nước coi trọng bàn tay của Nhà nước.
Do vậy, nên dừng ở mức: “Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển” như Nghị quyết Đại hội XII và cần bám sát Cương lĩnh (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Theo đó, vai trò của Nhà nước là quan trọng, không thể thiếu, Nhà nước vẫn phải thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, sử dụng các công cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế nhằm khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp theo là chế độ phân phối và mục tiêu “dân giàu”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ, “quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực phát triển” và “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”. Như vậy có ba trụ cột để phân phối của cải xã hội là: phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo vốn tham gia vào quá trình sản xuất và phân phối qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Ba trụ cột này hỗ trợ và bổ sung cho nhau bảo đảm sự phân phối được công bằng, hợp lý, giảm khoảng cách thu nhập, phân hóa giàu nghèo, là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và “bàn tay” Nhà nước, song không làm mất đi động lực phát triển, khắc phục phân phối không công bằng và tạo sự ổn định cho xã hội, tránh xảy ra mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội. Có thể khẳng định, Cương lĩnh đề ra một nguyên tắc rất căn bản của chế độ phân phối trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trên tinh thần đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nhấn mạnh đến hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội, chăm lo cho vùng sâu, vùng xa... Tuy nhiên, nói về hai trụ cột phân phối theo lao động, hiệu quả kinh tế và phân phối theo vốn tham gia vào sản xuất, kinh doanh là khá mờ nhạt, chưa cụ thể và chưa rõ. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII đã đề cập đến trụ cột thứ nhất và trụ cột thứ ba là: “cải cách chính sách tiền lương theo hướng tiếp cận với giá cả thị trường của sức lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc. Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, từng bước bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế...”. Nhưng rõ ràng trụ cột thứ hai “phân phối theo mức đóng góp vốn cùng nguồn lực khác” thì cả Văn kiện Đại hội XII và Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII vẫn chưa đề cập một cách tập trung, có nêu nhưng tản mạn ở lĩnh vực khác nhau. Để có thể làm rõ ba trụ cột của chế độ phân phối như tinh thần Cương lĩnh, cần phải hiểu rằng trụ cột phân phối thứ hai là thực hiện một cơ chế phân phối lần đầu và phân phối lại theo vốn góp, nguồn lực tài chính và các giá trị khác (thực chất là tư bản), nó sẽ đem lại một nguồn thu nhập chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho một bộ phận dân cư, phần lớn là những người giàu có trong xã hội. Nguồn thu nhập này trong cơ chế thị trường sẽ ngày một tăng, tạo ra khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, do vậy cần một sự điều tiết hợp lý thông qua các công cụ thuế, tạo ra nguồn thu cho ngân sách là nguồn lực để thực hiện hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước có trình độ phát triển cao, cơ chế thị trường phát huy đầy đủ, thì chính sách thuế của họ để điều tiết thu nhập, cổ tức, tài sản thừa kế rất cao (ví dụ thuế thu nhập cá nhân của Thụy Điển là 57,2%, Đan Mạch là 55,8%, Phần Lan là 53,75%, Hà Lan là 51,75%...; thuế thừa kế bình quân của các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) là 15%, trong đó ở Hà Lan là 20%, Phần Lan là 19%, Đan Mạch là 15%(3)...). Đồng thời, chính sách và hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cũng rất mạnh, giúp giảm khoảng cách giàu nghèo, chăm lo cho người yếu thế, đầu tư mạnh cho giáo dục, y tế, tạo nên một xã hội ổn định và công bằng ở mức người dân có thể chấp nhận được. Từ phân tích trên, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII cần nêu rõ và có chủ trương đúng về trụ cột phân phối thứ hai này cả ở hai mặt phân phối và điều tiết.
Một vấn đề khác cũng cần được xem xét, khi thực hiện cơ chế thị trường với nguyên tắc phân phối bởi ba trụ cột nêu trên thì vấn đề “dân giàu” trong mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cần được cân nhắc bởi nguyên tắc phân phối như trên thì chỉ có một bộ phận “dân giàu”, còn bộ phận không nhỏ “nghèo và cận nghèo”, phần lớn là “tầng lớp trung lưu”. Cho nên một nền kinh tế phát triển theo nguyên tắc thị trường, dù có sự điều tiết của Nhà nước nhằm khắc phục khoảng cách giàu nghèo thông qua chính sách điều tiết và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội thì không tránh khỏi một tỷ lệ nghèo tương đối và một tỷ lệ giàu thường tương ứng với tỷ lệ nghèo nhưng lại chiếm hữu một tỷ lệ lớn thu nhập của quốc gia, nhóm trung lưu sẽ tăng dần và đây là nhóm mà chúng ta cần hướng tới, khuyến khích để nhóm này chiếm tỷ lệ lớn trong xã hội. Đây là nhân tố phát triển và ổn định của xã hội.
Mặt khác, giới hạn về tiêu dùng cá nhân của mỗi người là có hạn, dù giàu có bao nhiêu thì sức tiêu thụ cho cá nhân của họ cũng chỉ dừng ở mức độ nhất định. Cái cần thiết nhất có thể coi không có giới hạn của con người là văn hóa, là tri thức, là nhu cầu hạnh phúc mà mọi người đều mong muốn và cũng là mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc. Thực tế cũng cho thấy, dân giàu chưa chắc đất nước đã mạnh, bởi vì quốc gia là một xã hội thì ổn định và mọi người cảm thấy hạnh phúc, đó là sức mạnh của quốc gia. Còn dân giàu nhưng không hạnh phúc thì quốc gia đó không mạnh. Do vậy, nên bổ sung yếu tố “hạnh phúc” vào mục tiêu phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu và nguyên tắc nhằm hoàn thiện thể chế để thu hút, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn tới
Từ các nội hàm được nêu về thể chế phân bổ, sử dụng hiệu quả nguồn lực, chúng ta đặt ra các mục tiêu, quan điểm và nội dung, giải pháp để hoàn thiện thể chế trong 5 năm, 10 năm và 25 năm tới khi chúng ta kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Nước (1945 - 2045). Trong bối cảnh các nguồn tài nguyên như đất đai, năng lượng sơ cấp, năng lượng thứ cấp đều có những điểm giới hạn, nguồn lực tài chính quốc gia chưa đủ mạnh, nguồn lao động trong nước có tới 70% chưa qua đào tạo, do vậy vấn đề huy động nguồn lực để có thể phát triển đất nước là một thách thức không nhỏ.
Trước tiên, cần phải có mục tiêu rõ ràng từ thấp đến cao để phấn đấu, cụ thể:
- Trong giai đoạn 2021 - 2025, cần tạo ra được đột phá lớn về thể chế trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực cho phát triển.
- Trong giai đoạn 2026 - 2030, cần huy động tổng thể nguồn lực, giảm dần nguồn lực dựa chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, vào vốn đầu tư, nguồn lực lao động thủ công, nhân công giá rẻ và tăng mạnh nguồn lực từ tài nguyên tri thức.
- Giai đoạn 2031 - 2045, nguồn lực tài nguyên tri thức sẽ giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển của Việt Nam thay thế cho việc dựa chủ yếu vào tài nguyên, vốn đầu tư, lao động giá rẻ.
Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc xây dựng thể chế phân bổ, sử dụng nguồn lực phải dựa trên quan điểm, nguyên tắc cơ bản nào? Phải chăng là:
- Nguyên tắc đầu tiên có tính tiên quyết là phân bổ và sử dụng nguồn lực phải trên nguyên tắc thị trường và chỉ có nguyên tắc thị trường mới là động lực căn bản, chủ yếu để huy động và phân bổ nguồn lực có hiệu quả. Song nếu thuần túy kinh tế thị trường thì có thể làm phát sinh các mặt trái của kinh tế thị trường, do vậy cần phải có sự điều chỉnh, dẫn dắt một cách hợp lý của Nhà nước, hợp lý một cách biện chứng chứ không mang tính chủ quan.
- Nguyên tắc tiếp theo là dựa trên nội lực là chủ yếu, coi đó là nền tảng, là hạt nhân, là điều kiện cần để thu hút nguồn lực từ bên ngoài và cũng bảo đảm sự độc lập về kinh tế.
- Kiên trì, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp cận và tranh thủ được nguồn lực là tri thức của thế giới, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và nguồn nhân lực chất lượng cao từ các quốc gia khác. Coi trọng cả nguồn lực bên trong và bên ngoài. Vấn đề độc lập, tự chủ về kinh tế trong bối cảnh hội nhập và xu thế toàn cầu hóa cần được tính toán đầy đủ, hợp lý.
- Cần tiết kiệm nguồn lực. Tiết kiệm nguồn lực là khởi đầu của hiệu quả, sự phung phí nguồn lực hiện nay đang ở các góc độ khác nhau: sử dụng tài nguyên lãng phí nghiêm trọng, sử dụng nguồn lực tài chính của Nhà nước, của doanh nghiệp, của dân cư thất thoát, lãng phí lớn (theo đánh giá là ít nhất 30%, không chỉ Nhà nước mà người dân, doanh nghiệp tư nhân đều lãng phí). Sử dụng lao động không hợp lý là lãng phí, sử dụng thời gian không hợp lý là lãng phí.
- Phân bổ và sử dụng nguồn lực phải dựa trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ lợi ích giữa Nhà nước, tổ chức kinh tế và cộng đồng dân cư. Đây là nguyên tắc bảo đảm sự đồng thuận trong xã hội. Nếu không tuân thủ sẽ gây bất ổn, xung đột xã hội.
- Cơ chế, chính sách, đường lối phải nhất quán, đồng bộ và khi chuyển đổi phải có thời gian chuyển tiếp hợp lý để cho nền kinh tế có thể vận hành, bắt kịp. Sự thay đổi đột ngột, chính sách không nhất quán sẽ gây thiệt hại đến việc sử dụng nguồn lực.
Nhiệm vụ và giải pháp hoàn thiện thể chế để thu hút, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực phục vụ cho nhu cầu phát triển
Cần phải thấy rằng, gần 35 năm đổi mới với những chính sách đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan, chúng ta đã có được thể chế để phân phối thu nhập, thu hút, phân bổ và sử dụng nguồn lực đem lại kết quả tích cực, giải phóng được sức sản xuất và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thu được kết quả quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Song cũng phải thừa nhận rằng cơ chế thu hút, phân bổ và sử dụng nguồn lực còn nhiều hạn chế, rào cản, nhất là trong thu hút nguồn lực, trong đó có ba lĩnh vực cần chú ý:
Về đất đai, tình trạng đất bị chiếm hữu không đưa vào sử dụng còn lớn cả ở nông thôn và thành thị, chưa có số liệu thống kê cụ thể, song có thể không dưới 30%. Mặt khác, sử dụng đất đai kém hiệu quả, không được chuyển đổi mục đích với diện tích không nhỏ. Đất để làm đường giao thông, công trình thủy lợi và các công trình phúc lợi để phục vụ chung cho cộng đồng nhưng khi cần được sử dụng thì lại bị vướng mắc về giải phóng mặt bằng, về giá trị thị trường của đất...
Về chính sách thu hút đầu tư, còn nhiều rào cản trong các quy định về hạn chế đầu tư, về các quy định ràng buộc khác chưa thực sự cởi mở; các chính sách về thuế, phí, lệ phí có nhiều điểm chưa hoàn thiện, chưa tạo sự hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu, chưa thực sự công bằng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Chính sách tín dụng hiện nay rất khó khăn, các doanh nghiệp khó có thể làm ăn hiệu quả được do lãi suất cao như hiện nay.
Các quy luật thị trường chưa được tôn trọng, sự can thiệp của Nhà nước quá sâu, thậm chí hành chính hóa, hình sự hóa các quan hệ thị trường. Do vậy, cần rà soát lại các luật về lĩnh vực kinh tế, các luật: hình sự, dân sự, hành chính bảo đảm thống nhất, tôn trọng các quy luật thị trường.
Để hoàn thiện thể chế nhằm thu hút, phân bổ và sử dụng nguồn lực phục vụ cho nhu cầu phát triển, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Giải pháp đột phá
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy hoạch quốc gia, vùng và tỉnh, bảo đảm tầm nhìn lâu dài, là cơ sở cho phát triển đúng định hướng và có độ mở, tránh xơ cứng, chậm điều chỉnh.
Thứ hai, xây dựng các loại thị trường, thực hiện cơ chế giá thị trường, hạn chế sự can thiệp của Nhà nước, nhất là đối với giá điện, giá nước, giá dịch vụ y tế, giáo dục, dịch vụ bảo vệ môi trường, giá các sản phẩm khoa học - kỹ thuật và sở hữu trí tuệ, giá cả sức lao động (hiện nay nhiều nơi thu nhập không đủ tái sản xuất sức lao động giản đơn chứ chưa nói đến tái tạo sức lao động mở rộng).
Thứ ba, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung một số luật đang là điểm nghẽn, như Luật Đất đai (làm rõ vấn đề sở hữu liên quan đến quyền của Nhà nước trong quyết định mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; giá đất; sử dụng và quản lý đất quốc phòng, an ninh... Các quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân là người nước ngoài trong sử dụng các quyền: chuyển giao, thế chấp, góp vốn, thừa kế... Các vi phạm về quản lý đất đai, tình trạng để đất hoang hóa, chậm đưa đất vào sử dụng, trình tự, thủ tục thu hồi đất...). Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế, phí, lệ phí (bảo đảm huy động hợp lý vào ngân sách nhà nước, bảo đảm tính trung lập của thuế, cơ cấu hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu theo hướng tăng tỷ trọng thuế trực thu, giảm thuế gián thu; tăng thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường... Nghiên cứu giao cho chính quyền địa phương quyết định một số loại thuế, phí, lệ phí gắn với tình hình thực tế của địa phương)...
Giải pháp lâu dài
Một là, xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, dạy nghề hợp lý hướng tới đào tạo một nguồn nhân lực có chất lượng cao, tạo ra nguồn tài nguyên tri thức cho đất nước. Đó là cơ sở lâu dài cho sự phát triển.
Hai là, thực hiện tốt chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ký kết và tham gia tích cực các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Thực hiện nghiêm túc các điều ước quốc tế đã ký kết; cương quyết không vi phạm sở hữu trí tuệ, hàng giả, hàng kém chất lượng; nâng cao vị thế, uy tín thương hiệu quốc gia trên lĩnh vực kinh tế.
Ba là, có chính sách phát triển khoa học - công nghệ, coi phát triển khoa học - công nghệ là thật sự quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá cho phát triển đất nước cả trước mắt và lâu dài.
Một số kiến nghị
Trước tiên, cần thống nhất về quan điểm: thu hút, phân bổ và sử dụng nguồn lực để phát triển phải dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường là chủ yếu, vai trò của Nhà nước là cần thiết và quan trọng, đó là điều kiện cần và đủ, đó là hai mặt cân đối của một thể chế huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực không chỉ hiệu quả mà còn là sự công bằng và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp theo, cần thể hiện rõ quan điểm: phải huy động, phân bổ và sử dụng tốt nguồn nội lực, kể cả sức mạnh tiềm năng hình thành trong tương lai của quốc gia, đồng thời thu hút, phân bổ, sử dụng nguồn lực từ bên ngoài hiệu quả. Trong đó nguồn lực bên trong là chủ yếu, là hạt nhân, là nền tảng. Nguồn lực bên ngoài là quan trọng, cần thiết.
Sau đó, sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế phải dựa vào biện pháp kinh tế, dựa vào các công cụ hợp lý, như thuế, phí, lệ phí, các quỹ tài chính; hạn chế tối đa dùng các biện pháp hành chính, các biện pháp phi thị trường; hạn chế tình trạng thay đổi chính sách, không ổn định chính sách và nếu có thay đổi cần có giai đoạn chuyển tiếp hợp lý hỗ trợ, giúp doanh nghiệp có đủ thời gian và nguồn lực để chuyển đổi.
Tiếp đến, mặc dù đã có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về doanh nghiệp nhà nước song vẫn cần làm rõ vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống các lực lượng vật chất của Nhà nước, mục tiêu của doanh nghiệp nhà nước phải lấy lợi nhuận là chính và không nên khống chế lĩnh vực, nếu có hiệu quả thì nên đầu tư.
Cuối cùng, cần có tư duy mới về nguồn lực: tài sản hình thành trong tương lai, trong đó có tài sản hình thành trong tương lai ở cấp độ quốc gia, cấp độ địa phương, doanh nghiệp để tạo nguồn lực cho phát triển./.
-----------------------
(1) Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, tr. 900
(2) Đào Minh Hồng - Lê Hồng Hiệp (chủ biên): Sổ tay thuật ngữ quan hệ quốc tế, 2013
(3) Alan Cole: Estate and Inheritance Taxes around the World. Tax Foundation Fiscal Fact, March 2015, No.458
Hội thảo “Những nội dung mới và điểm nhấn trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng”  (27/09/2020)
Lô 114 - Điểm sáng trong hoạt động tìm kiếm, thăm dò ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam  (29/07/2020)
Hội nghị lấy ý kiến góp ý vào dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2020 - 2025  (06/06/2020)
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Một số nội dung chủ yếu trong đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp
- Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế: Kinh nghiệm của Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên