TCCS - Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc tại Đông Nam Á gia tăng, Nhật Bản nổi lên như một đối tác tiềm năng của các nước trong khu vực. Với tiềm lực kinh tế, kinh nghiệm và chính sách ngoại giao khôn khéo, Nhật Bản đang nỗ lực từng bước củng cố vị thế tại khu vực chiến lược quan trọng này.
Những bước đi vững chắc về chính trị - ngoại giao
Đối với Nhật Bản, khu vực Đông Nam Á được xem là địa bàn quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại của nước này. Sau Chiến tranh lạnh, bên cạnh việc duy trì hiệp ước an ninh với Mỹ để bảo vệ an ninh quốc gia, Nhật Bản tích cực sử dụng sức mạnh kinh tế để mở rộng ảnh hưởng chính trị, quân sự tại khu vực. Với tư cách là một công cụ ngoại giao kinh tế chủ chốt, viện trợ phát triển chính thức (ODA) đã giúp Nhật Bản từng bước nâng cao ảnh hưởng, nhất là tại khu vực Đông Nam Á.
Lợi ích của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á thể hiện rõ ràng cả về địa - chiến lược và địa - kinh tế. Trong lịch sử, Nhật Bản luôn hướng đến khu vực này do lợi ích thương mại của các nước Đông Nam Á phù hợp với chiến lược đối ngoại của Nhật Bản - một đất nước luôn phải nỗ lực bảo đảm nguồn cung do nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, cũng như tìm kiếm các cơ hội mới trong quá trình phục hồi nền kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhật Bản đã can dự vào Đông Nam Á ngay từ đầu thế kỷ XX với việc năm 1977, Thủ tướng Nhật Bản Fukuda Takeo đã công bố chính sách mới của Nhật Bản đối với các nước Đông Nam Á, còn được biết đến với tên gọi “Học thuyết Fukuda”, khẳng định Nhật Bản sẽ phát triển và duy trì là một quốc gia hòa bình, “đối tác bình đẳng” với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ưu tiên sử dụng công cụ kinh tế để thúc đẩy ổn định, hợp tác khu vực, xây dựng mối quan hệ hiểu biết, gắn bó với Đông Nam Á, đồng thời đề xuất vai trò cầu nối, hòa giải và thúc đẩy quan hệ vào thời điểm đó giữa nhóm nước ASEAN và Nhật Bản.
Cùng với những chuyển biến mạnh mẽ của tiến trình liên kết Đông Nam Á, sự ra đời của ASEAN bao gồm đầy đủ 10 nước khu vực, trước xu hướng mở rộng ảnh hưởng của các nước khác tại khu vực này, Nhật Bản đã từng bước bổ sung, điều chỉnh chính sách đối với khu vực Đông Nam Á theo hướng từ quan hệ giữa nước viện trợ và nhận viện trợ, chủ yếu đơn thuần về kinh tế, sang quan hệ trao đổi rộng rãi không những về kinh tế mà còn trên các lĩnh vực an ninh, chính trị, văn hóa - xã hội. Học thuyết Hashimoto (năm 1997) bắt đầu đề cập đến tăng cường quan hệ chiến lược, chính trị đối với khu vực Đông Nam Á nhằm ứng phó với những thách thức đang gia tăng ngay tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trước hết là vai trò ngày càng tăng của Mỹ tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và ảnh hưởng ngày càng mạnh của Trung Quốc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nhật Bản đã từng bước tạo dựng cho mình một chỗ đứng khá ổn định và vững chắc trong đời sống chính trị tại khu vực. Có thể nói, với những đặc điểm về địa - chính trị, địa - lịch sử, địa - văn hóa, Đông Nam Á có vị trí quan trọng trong nỗ lực thiết lập, củng cố vai trò lãnh đạo về kinh tế và chiến lược của Nhật Bản (cùng với Mỹ).
Từ những năm đầu thế kỷ XXI, các động thái của Mỹ và Trung Quốc tại khu vực trở thành nhân tố chính chi phối các bước đi và điều chỉnh chính sách của Nhật Bản tại Đông Nam Á. Trong những năm 2013 - 2016, chính quyền Thủ tướng Nhật Bản Shizo Abe đã triển khai chính sách đối ngoại của Nhật Bản ở khu vực dựa trên sự cân nhắc về mối quan ngại ngày càng gia tăng về vai trò, ảnh hưởng của Trung Quốc tại Đông Nam Á và những giới hạn của chính sách “tái cân bằng sang châu Á” của chính quyền Tổng thống Mỹ Barack Obama. Trong giai đoạn 2017 - 2020, chính quyền Thủ tướng Nhật Bản S. Abe phải nỗ lực để xoay xở khi chính quyền Tổng thống Mỹ D. Trump rút Mỹ khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, nay là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP) do chính Mỹ khởi xướng, đồng thời tìm kiếm những điểm chung với Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc. Từ năm 2021 đến nay, trong bối cảnh chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden đẩy mạnh củng cố quan hệ với các đồng minh chiến lược tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Nhật Bản đã có không gian chiến lược rộng hơn để hưởng ứng các sáng kiến mới của Mỹ tại khu vực, như Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) nhằm tìm kiếm một chiến lược sâu rộng và lâu dài hơn cho Đông Nam Á, qua đó khẳng định vị thế quan trọng của Nhật Bản trong khu vực và triển khai các mục tiêu chung với đồng minh Mỹ. Từ năm 2022 đến nay, Nhật Bản cùng Mỹ triển khai các chiến lược nhằm định hình ở Đông Nam Á các khuôn khổ về an ninh, kinh tế và giá trị chung. Có thể thấy, các động thái của Mỹ và Trung Quốc chính là nhân tố có ý nghĩa quan trọng, quyết định các bước đi cụ thể của Nhật Bản tại khu vực. Nhật Bản hiện đang nỗ lực triển khai nhiều cam kết không chỉ về kinh tế, mà còn cả về chính trị, quân sự và xã hội trong bối cảnh nhiều nước tại Đông Nam Á cũng đặt kỳ vọng vào năng lực đầu tư, cam kết và vai trò dẫn đầu của Nhật Bản trong việc định hình các quy tắc trong khu vực.
Một trong những bước đi cụ thể và nổi bật nhất, đánh dấu nỗ lực của Nhật Bản là việc thúc đẩy khái niệm “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (FOIP), trong đó xác định Đông Nam Á là trọng điểm trong khuôn khổ khu vực mới này. Trong bài phát biểu nhân chuyến thăm Ấn Độ vào năm 2007, Thủ tướng Nhật Bản S. Abe đã nêu ra ý tưởng về một “châu Á rộng lớn hơn”, là “nơi hợp lưu của hai vùng biển” Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, cam kết theo đuổi mục tiêu tự do, thịnh vượng và cùng tồn tại. Khái niệm chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thể hiện tầm nhìn rộng lớn hơn, trong đó Nhật Bản không chỉ tập trung vào Đông Nam Á, mà còn phải hợp tác chặt chẽ hơn với Australia, Ấn Độ và Mỹ, tạo thành “khối kim cương” bảo vệ các vùng biển chung trải dài từ Ấn Độ Dương đến Tây Thái Bình Dương. Đây là nguyên lý trọng tâm làm cơ sở cho sự ra đời của nhóm “Bộ tứ”. Trên thực tế, sáng kiến FOIP là một trong số ít các khuôn khổ đa phương mà Tổng thống Mỹ D. Trump từng cam kết theo đuổi. Tầm nhìn này phản ánh cách tiếp cận đa chiều và thực tế của Nhật Bản trước những biến động tại khu vực. Nhật Bản đã từng bước kiềm chế những tác động từ sự “trỗi dậy” của Trung Quốc, tăng cường củng cố liên minh với Mỹ và duy trì các cam kết của Mỹ đối với Nhật Bản và châu Á nói chung, đồng thời nâng cao năng lực trong nước, đưa Nhật Bản trở thành đối tác không thể thiếu trên trường quốc tế, là hình mẫu về một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.
Là vị thủ tướng có thời gian tại vị lâu nhất của Nhật Bản, với quan điểm coi Đông Nam Á là chìa khóa cho cách tiếp cận thực tế, chiến lược hơn trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản, Thủ tướng Nhật Bản S. Abe đã khẳng định ưu tiên của mình đối với khu vực này qua tần suất dày đặc của các chuyến công du ngoại giao. Ông trở thành Thủ tướng Nhật Bản đầu tiên thăm tất cả 10 nước ASEAN, trong đó đã thăm Việt Nam, Thái Lan và Indonesia trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của mình. Chiến lược ngoại giao cá nhân này của ông cũng được những người kế nhiệm triển khai tích cực. Chuyến công du nước ngoài đầu tiên của Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide là đến Việt Nam và Indonesia vào năm 2020. Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio cũng đến tất cả 10 quốc gia ASEAN trong vai trò Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và cũng đã thăm Indonesia, Việt Nam và Thái Lan. Tần suất của các chuyến thăm cấp cao qua nhiều nhiệm kỳ thủ tướng thể hiện sự kiên định, chủ động của Nhật Bản trong triển khai ưu tiên thúc đẩy quan hệ chiến lược và củng cố sự hiện diện, ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á.
Thúc đẩy vai trò dẫn dắt về kinh tế - thương mại
Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, Nhật Bản đóng vai trò quan trọng với vị thế là “bên tạo ra xu hướng”, thể hiện rõ nhất ở việc nước này vươn lên lấp đầy “khoảng trống” sau khi Mỹ rút khỏi TPP ) vào năm 2017. Giai đoạn 2017 - 2020, với chiến lược ngoại giao khôn khéo, Nhật Bản đi đầu trong việc bảo vệ cơ chế thương mại đa phương TPP với tham vọng không chỉ giảm bớt các rào cản thương mại, mà còn đáp ứng những tiêu chuẩn cao về lao động và phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Với việc dẫn dắt 11 nước thành viên TPP duy trì cam kết với Hiệp định là thành công ngoại giao, thể hiện vai trò địa - kinh tế, địa - chính trị của Nhật Bản tại khu vực. Thành công của Nhật Bản không chỉ ở việc bảo đảm tương lai của CPTPP, mà còn là khả năng lan tỏa sức hấp dẫn và ảnh hưởng của hiệp định này tới các nước thành viên tiềm năng khác, qua đó định hình vai trò của Nhật Bản trong cấu trúc kinh tế khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Bối cảnh mới với những căng thẳng địa - chính trị trong khu vực, nhất là trước sự nổi lên của Trung Quốc, củng cố quyết tâm chiến lược của Nhật Bản trong nỗ lực cân bằng giữa nhu cầu bảo đảm quan hệ đồng minh chặt chẽ hơn với Mỹ và mong muốn hợp tác sâu sắc hơn với các quốc gia có cùng mục tiêu hướng tới là duy trì một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Nhật Bản cũng tận dụng mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp của mình với các nước ASEAN, góp phần bảo đảm thành công cho sáng kiến IPEF của Mỹ, được chính thức công bố vào tháng 5-2022 với sự tham gia của 14 quốc gia đại diện cho khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Với bốn trụ cột chính, IPEF đặt mục tiêu thúc đẩy quan hệ thương mại, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật số, tăng cường khả năng phục hồi chuỗi cung ứng của các mặt hàng quan trọng, trung hòa carbon và thúc đẩy nền kinh tế xanh; giải quyết tham nhũng và hướng tới một nền tảng kinh tế công bằng cho toàn khu vực. Không chỉ dừng lại ở nỗ lực thúc đẩy một thỏa thuận thương mại đa phương mới do Mỹ chủ trì nhằm bảo đảm sự hiện diện và cam kết của Mỹ về kinh tế và thương mại tại khu vực, Nhật Bản cũng đạt nhiều thành công trong vai trò là một đồng minh thân cận trong nỗ lực tăng cường sự can dự của Mỹ tại khu vực chiến lược này. Mỹ tiếp tục đẩy mạnh sự hiện diện về chính trị và quân sự thông qua nhóm “Bộ tứ” và Thỏa thuận an ninh ba bên giữa Mỹ, Australia và Anh (AUKUS).
Nhật Bản cũng sớm ưu tiên thúc đẩy chiến lược quản lý kinh tế của mình trong khu vực thông qua cách tiếp cận toàn diện trong lĩnh vực đầu tư, cho vay và kết nối mạng tại khu vực, ngay cả trước khi BRI của Trung Quốc được triển khai. Nhật Bản hiện vẫn là nhà đầu tư lớn nhất trong các dự án kết cấu hạ tầng tại khu vực Đông Nam Á. Sức hấp dẫn của Nhật Bản không chỉ đơn giản là nhờ nguồn vốn đầu tư, mà còn chủ yếu nằm ở yếu tố lòng tin vào chất lượng của các dự án, với thương hiệu “kết cấu hạ tầng chất lượng”, nhấn mạnh các yếu tố bền vững về tài chính và môi trường. Năm 2015, chính quyền Thủ tướng Nhật Bản S. Abe đã khởi động sáng kiến Đối tác về kết cấu hạ tầng chất lượng cao, tập trung vào tăng trưởng bền vững và hợp tác với các nước Đông Nam Á và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Việc tập trung vào kết cấu hạ tầng chất lượng cao với chi phí ban đầu cao hơn nhưng có lợi thế về tính bền vững hiện cũng đang trở thành tiêu chuẩn mà nhiều quốc gia hướng tới. Sau đại dịch COVID-19, Nhật Bản mở rộng các lĩnh vực đầu tư và can dự vào khu vực Đông Nam Á. Hội nghị tham vấn Bộ trưởng Kinh tế ASEAN - Nhật Bản diễn ra tại Indonesia (tháng 8-2023) đã thông qua Tầm nhìn đồng sáng tạo kinh tế ASEAN - Nhật Bản, qua đó tiếp tục gắn kết các mục tiêu kinh tế và an ninh, chính trị, đối ngoại của Nhật Bản. Bốn lĩnh vực hợp tác được nêu bật giữa hai bên như ưu tiên tăng trưởng bền vững, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng cường kết nối vật lý, kết nối mạng và phát triển một hệ sinh thái khuyến khích tăng trưởng nguồn nhân lực. Sáng kiến này phản ánh ưu tiên hỗ trợ của Nhật Bản trong thập niên qua, chú trọng những quan hệ đối tác kết cấu hạ tầng minh bạch, có tác động lớn và định hướng giá trị. Những vấn đề như biến đổi khí hậu, thúc đẩy phối hợp mạng công nghệ thông tin, tìm kiếm các giải pháp thu hẹp bất bình đẳng chính là những điểm khác biệt trong tầm nhìn của Nhật Bản đối với quan hệ hợp tác đầu tư với các đối tác khu vực. Các cam kết về kết cấu hạ tầng tiêu chuẩn cao và ưu tiên đầu tư vào con người để bảo đảm tính bền vững của các dự án cũng chính là động lực lan tỏa và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Sau đại dịch COVID-19, đặc biệt sau khi cuộc xung đột Nga - Ukraine bùng phát, cục diện an ninh - chính trị thế giới có nhiều diễn biến mới, tập hợp lực lượng diễn ra theo hướng phức tạp hơn, các nước lớn xung đột và đối đầu gay gắt buộc phải dàn trải tiềm lực tại nhiều địa bàn, nhiều khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, những ưu tiên và cam kết của Nhật Bản đối với khu vực Đông Nam Á không vì thế mà suy giảm, xuất phát từ vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế của khu vực này trong mục tiêu an ninh và đối ngoại, phát triển và ảnh hưởng của Nhật Bản. Trung Quốc ngày càng khẳng định vị thế cường quốc tại khu vực Đông Bắc Á với những căng thẳng và tranh chấp vốn tồn tại trong lịch sử. Một số quốc gia Đông Nam Á được coi là một phần không thể thiếu trong chiến lược của Nhật Bản nhằm phục hồi chuỗi cung ứng, duy trì và thúc đẩy tăng trưởng. Đồng thời, trong bối cảnh nhân khẩu học của Nhật Bản ngày càng suy giảm sẽ là động lực khiến nước này phải thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường ASEAN vốn đang phát triển mạnh mẽ và giàu sức trẻ trong những năm tới. Các nước Đông Nam Á vẫn có nhu cầu đón nhận nguồn vốn và kinh nghiệm của Nhật Bản, vốn nổi tiếng về tính minh bạch, quản trị tốt và tuân thủ pháp quyền. Tuy nhiên, những thay đổi trong thực tế địa - chính trị tại khu vực kéo theo những lo ngại về an ninh rõ ràng sẽ ngày càng đóng vai trò lớn hơn trong việc xác định các lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế của Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á.
Một số khó khăn, thách thức
Trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng, khả năng Nhật Bản giữ vai trò lãnh đạo chính trị, phù hợp với tầm nhìn và vị thế kinh tế của nước này trong khu vực là không đơn giản, xuất phát từ những rủi ro từ môi trường địa - chính trị phức tạp, nhất là tại khu vực Đông Bắc Á. Căng thẳng giữa hai miền Triều Tiên, sự suy giảm lòng tin trong quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản, những tranh chấp dai dẳng về chủ quyền biển, đảo… sẽ là những yếu tố tác động lớn tới ưu tiên và bước đi của Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á. Chiến lược an ninh quốc gia cùng với chiến lược phòng thủ quốc gia và chương trình xây dựng quốc phòng mới được Nhật Bản công bố gần đây phản ánh thực tế mối quan tâm của nước này đối với các mối đe dọa xuất phát từ Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Nga.
Thách thức tiếp theo đối với Nhật Bản chính là việc duy trì sự tương thích chặt chẽ với Mỹ trong nhận thức và hành động để đối phó với những rủi ro an ninh trong khu vực. “Rủi ro lớn nhất là ngăn Mỹ đi theo chủ nghĩa bảo hộ”, trong trường hợp này, khó khăn với Nhật Bản là việc bảo đảm rằng nước này vẫn nắm vị thế là quốc gia đi đầu trong việc xây dựng các quy tắc, giữ vai trò là đối tác tin cậy đối với Đông Nam Á ngay cả khi những nhận thức và lợi ích địa - chính trị, nhất là liên quan đến quan hệ với Trung Quốc, không song trùng với nhận thức của Mỹ. Bên cạnh đó, xem xét cặp quan hệ giữa liên minh Mỹ - Nhật Bản với Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay, các nước ASEAN theo đuổi chiến lược ngoại giao cân bằng linh hoạt, thúc đẩy quan hệ với cùng lúc nhiều nước lớn và không muốn “chọn bên”, trong khi đó bản thân ASEAN và Trung Quốc có mối quan hệ chặt chẽ về thương mại, đầu tư, giao lưu nhân dân và ASEAN coi Trung Quốc là nhân tố then chốt để duy trì đà tăng trưởng kinh tế. Sự đan xen lợi ích và tính phức tạp của các mối quan hệ nói trên sẽ đặt Nhật Bản vào thế khó khăn giữa việc theo đuổi mục tiêu khẳng định vị thế tại Đông Nam Á và ứng xử với Mỹ, Trung Quốc.
Cuối cùng, không giống như Trung Quốc hay Mỹ, cam kết kinh tế của Nhật Bản với ASEAN ít bị chi phối bởi ý thức hệ. Cả Nhật Bản lẫn ASEAN đều tìm cách không bị mắc kẹt trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc. Tuy nhiên, khi sự đổi mới sáng tạo và những tiến bộ trong công nghệ ngày càng giữ vai trò quyết định định hình sức mạnh kinh tế thì cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc trong cuộc chạy đua chi phối việc thiết lập các tiêu chuẩn toàn cầu sẽ ngày càng gay gắt. Hiện nay, Nhật Bản đang thúc đẩy mục tiêu hợp tác và thịnh vượng lớn hơn với các nước Đông Nam Á, nhất là thông qua các dự án kết cấu hạ tầng, do đó tầm nhìn hỗ trợ phát triển của Nhật Bản có thể bị ảnh hưởng do cạnh tranh công nghệ đang gia tăng. Tuy nhiên, lòng tin chiến lược giữa Nhật Bản với phần lớn các đối tác tại Đông Nam Á hiện đang ở mức cao. Đây là nền tảng thuận lợi quan trọng để Nhật Bản triển khai các khuôn khổ và chiến lược hợp tác rộng mở hơn, vượt lên khuôn khổ quan hệ kinh tế đơn thuần và đạt được vị thế, ảnh hưởng vững chắc hơn về an ninh, phát triển tại khu vực Đông Nam Á.
Trong quan hệ với Việt Nam, kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 21-9-1973, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản không ngừng được củng cố và phát triển lên tầm cao mới. Hiện nay, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản được đánh giá đang ở giai đoạn tốt đẹp nhất trong lịch sử quan hệ hai nước. Hai bên đã nâng cấp quan hệ lên mức đối tác chiến lược toàn diện, thể hiện cao độ sự tin cậy chính trị giữa hai bên, phản ánh kết quả của một tiến trình dài 50 năm hợp tác toàn diện, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực giữa hai nước, nhất là về kinh tế, quốc phòng và giao lưu nhân dân. Trên góc độ hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN, kể từ khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào năm 1995, Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng và đóng góp tích cực trong hợp tác ASEAN - Nhật Bản. Việt Nam đánh giá cao những tiến triển mạnh mẽ và thực chất giữa Nhật Bản và ASEAN trong thời gian qua, sẵn sàng cùng các nước ASEAN và Nhật Bản thúc đẩy quan hệ hai bên phát triển lên tầm cao mới, góp phần thúc đẩy và làm sâu sắc hơn mối quan hệ này thông qua hợp tác kinh tế - thương mại, giao lưu nhân dân và sự hiểu biết lẫn nhau, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân Nhật Bản, các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam./.
----------------------
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.36/21-25 của Ban Đối ngoại Trung ương do TS Lê Hoài Trung làm chủ nhiệm
Quan hệ ASEAN - Nhật Bản: Chặng đường 50 năm hợp tác  (15/10/2023)
Một số tác động của cuộc xung đột Nga - U-crai-na tới cục diện thế giới  (27/09/2023)
Phát triển chuỗi cung ứng bền vững trong bối cảnh mới  (23/08/2023)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam