TCCSĐT - Xây dựng chủ nghĩa xã hội – xã hội văn hóa là con đường nhất quán được Đảng và nhân dân ta đồng thuận xác định và kiên trì phấn đấu trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Việc phát triển kinh tế - xã hội hiện nay cũng không gì khác hơn là xây dựng một xã hội văn hóa.

Văn hóa, xét đến cùng bản chất của nó là “trình độ được vun trồng” ngày càng hoàn thiện, toàn diện của con người về cả thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, tinh thần…, và xã hội loài người với tất cả các mối quan hệ vốn có của nó theo thước đo tiên tiến nhất của thời đại.

Xét về mặt xã hội, mục tiêu giải phóng con người, vì hạnh phúc thật sự của con người, hướng tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” với những chuẩn mực đạo đức đẹp, cao thượng, lành mạnh…; những hành vi nhân văn; sức lao động, sáng tạo của con người đạt hiệu quả cao... là lý tưởng cao cả, là mục tiêu cuối cùng của loài người tiến bộ. Những đặc trưng đó chỉ có thể hiện hữu trong một xã hội mà sự phát triển hướng vào lợi ích của tất cả nhân dân lao động và họ là chủ nhân chân chính của đất nước. Đó chính là xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà các nhà sáng lập Chủ nghĩa cộng sản khoa học cho rằng đó là hình thái kinh tế – xã hội mà sự phát triển toàn diện, không hạn chế của mỗi người đang trở thành mục đích trực tiếp của sự phát triển của nó. Chủ nghĩa cộng sản là xã hội mà lực lượng sản xuất phát triển phi thường, có khả năng sản xuất dồi dào các vật phẩm tiêu dùng, khiến có thể thực hiện được nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản: “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Nhưng chủ nghĩa cộng sản không chỉ đơn thuần tạo ra sản phẩm dồi dào đến mức mỗi người có thể thỏa mãn nhu cầu riêng của mình; đó là một xã hội đào tạo những con người có nhân cách, có khả năng sáng tạo hết sức đa dạng. Con người ở đây không phải là kẻ tiêu thụ, muốn chiếm lấy và sử dụng thật hết sức nhiều vật phẩm tiêu dùng; trong con người đó phát triển những nhu cầu thật là của con người, trước hết là nhu cầu hoạt động cải tạo, sáng tạo. Dưới chủ nghĩa cộng sản, một xã hội đặt mục đích cho mình là biến mỗi người thành một người sáng tạo, hoạt động của con người được thực hiện với tính cách là một hoạt động chủ động, sáng tạo. Được giải phóng khỏi lao động nặng nhọc, đơn điệu trong chính lĩnh vực sản xuất vật chất, mỗi thành viên trong xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ có khả năng phát triển năng lực của mình một cách toàn diện.

Các nhà sáng lập Chủ nghĩa cộng sản khoa học dựa vào thành tựu của các ngành khoa học đó dự báo một cách khoa học về một xã hội văn hóa tương lai là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Xuất phát từ tư duy khoa học duy vật biện chứng, bằng tấm lòng nhân văn cao cả của mình, các ông đã khẳng định và tin tưởng rằng, với tất cả những phẩm chất và hành động tích cực của mình, loài người sẽ xây dựng thành công và là chủ nhân chân chính của một xã hội văn hóa. Vì vậy, với niềm tin vừa lý trí vừa tình cảm, C. Mác, Ph. Ăng ghen đã sớm nêu rõ bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội từ những kiến giải kinh tế – xã hội, chính trị – triết học. Các ông cho rằng, hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ được thay thế bằng một hình thái cao hơn, hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội.

C. Mác và Ph. Ăng ghen đã từng bước xây dựng những luận điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội, chỉ ra những phương hướng phát triển chủ yếu và những đặc trưng bản chất của nó mà đặc trưng cơ bản nhất là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giải phóng cho con người khỏi mọi tình trạng bị bóc lột về kinh tế, bị áp bức về chính trị, bị nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người có thể tận lực phát triển mọi khả năng sẵn có của mình.

V.I. Lê-nin phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức giai đoạn đế quốc chủ nghĩa với đầy rẫy tính chất phi văn hóa. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội đã từ lý luận trở thành hiện thực xã hội. Chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ xã hội, sau khi đã hoàn thiện sẽ là bước phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản. Có thể nói, V.I. Lê-nin là người đầu tiên biến khát vọng về một xã hội văn hóa trở thành khả thi cho nước Nga nói riêng, loài người nói chung.

Sinh ra và lớn lên khi tổ quốc mình đang trong vòng nô lệ, dân lầm than cơ cực, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành yêu nước, thương dân, chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó không gì khác hơn là một xã hội văn hóa. Vì vậy, Người quyết định ra ngoài xem các nước họ làm ăn thế nào để trở về giúp đồng bào giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội khoa học từ quan điểm duy vật lịch sử của Mác, nghĩa là từ học thuyết hình thái kinh tế – xã hội và từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân – giai cấp trung tâm của thời đại mới. Nói cách khác, Người đã tiếp thu những quan điểm của các tác giả kinh điển về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa dân tộc, nên cũng bổ sung những nét riêng của mình về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:

- Từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, học thuyết khoa học và cách mạng con đường chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng loài người. Người đã viết: “…chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”(1).

Rõ ràng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, mới thực sự đem lại độc lập, tự do, bình đẳng cho các dân tộc.

- Từ phương diện đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nó bảo đảm cho sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Giai cấp công nhân chẳng những đấu tranh để tự giải phóng mà còn để giải phóng cho cả loài người khỏi áp bức, bóc lột. Lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của nhân dân là thống nhất. Chủ nghĩa xã hội vì vậy xa lạ và đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Người nói, chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Người lên án mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân, một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội, và kêu gọi phải tiêu diệt nó, nhưng Người không hề phủ nhận cá nhân, trái lại, Người rất chăm lo đến nhu cầu và lợi ích của cá nhân, đề cao năng lực và phẩm chất của mỗi cá nhân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Người cổ vũ: Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người. Như vậy, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cao cả nhất là đạo đức cách mạng, đạo đức giải phóng dân tộc, giải phóng loài người. Chủ nghĩa xã hội, vì vậy cũng là giai đoạn phát triển mới của văn hóa đạo đức.

- Từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam, một quốc gia nông nghiệp lúa nước truyền thống với những đặc trưng: không trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ với những dấu ấn hà khắc; là một quốc gia nhỏ luôn phải đứng lên chống lại các thế lực ngoại xâm to lớn hơn mình nhiều lần nhưng lại hung bạo và tàn ác, luôn có ý đồ đồng hóa dân tộc ta, muốn sáp nhập nước ta vào lãnh thổ của chúng… Do đó, để tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam đã tạo cho mình truyền thống cố kết cộng đồng - nhân tố thuận lợi để đi vào chủ nghĩa xã hội. Đây là nét văn hóa đặc thù Việt Nam.

Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan dung, hòa mục để hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng trí thức, hiền tài.

Con người Việt Nam hiền hậu, có tâm hồn trong sáng, giàu lòng vị tha, yêu thương đồng loại, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa…kết hợp được cái chung với cái riêng, gia đình với Tổ quốc, dân tộc và nhân loại…

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất phát từ khát vọng nhân văn và văn hóa đã giúp người đến với tư tưởng chủ nghĩa xã hội và lựa chọn chủ nghĩa xã hội là chế độ để hướng dân tộc mình quyết tâm xây dựng và đi tới. Người nhận thức rằng, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hóa và giải phóng con người ta. Nói văn hóa cũng tức là nói tới con người – chủ thể của văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng con người, tình người, mối quan hệ nhân văn giữa người với người, chú trọng nâng cao lý tưởng, đạo đức, văn hóa, khoa học cho con người, vì con người, khát khao chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa thì mới có chủ nghĩa xã hội – xã hội văn hóa.

Như vậy, mục tiêu cuối cùng của một xã hội tiên tiến thống nhất với bản chất của một nền văn hóa tiến bộ, lấy việc phát triển con người là mục đích cao nhất. Đây không phải là sự gặp gỡ ngẫu nhiên mà là một xu hướng tất yếu nảy sinh trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển đúng quy luật của nhân loại. Điều đó, một lần nữa góp thêm tiếng nói khách quan khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê-nin là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, hàm chứa những giá trị văn hóa cao mà loài người hướng tới. Và qua đó cũng khẳng định rằng văn hóa là mục tiêu của loài người hướng tới.

 Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển đã được chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cụ thể hóa bằng những nhận thức về đặc trưng, bản chất của xã hội văn hóa – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn đầu để tiến đến chủ nghĩa cộng sản, xã hội với đặc trưng bao trùm là văn hóa hoàn thiện nhất, xã hội tốt đẹp nhất thỏa mãn mọi nhu cầu chính đáng của con người. Xã hội văn hóa này được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin nêu rõ một số đặc trưng sau:

- Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu công cộng để giải phóng cho sức sản xuất xã hội phát triển.

- Có một nền công nghiệp đại cơ khí với trình độ khoa học và công nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.

- Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xóa bỏ sản xuất hàng hóa trao đổi tiền tệ (quan niệm này về sau đã được điều chỉnh với chính sách Kinh tế mới của Lê-nin).

- Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự công bằng về lao động và hưởng thụ.

-  Khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất về giai cấp.

- Giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ tư tưởng và văn hóa cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người tận lực phát triển mọi khả năng sẵn có của mình.

- Sau khi đã đạt được những điều nói trên, khi giai cấp không còn nữa thì chức năng chính trị của nhà nước sẽ dần dần tiêu vong.

 Những phán đoán khoa học nói trên về một xã hội tương lai mà nhân loại hướng tới là những đặc trưng phản ánh tính văn hóa cao của một xã hội.

Là người học trò sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh thống nhất với các bậc thầy Mác – Lê-nin về bản chất văn hóa của chủ nghĩa xã hội, đó là xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao; văn hóa đạo đức trong sáng, cao thượng; các quan hệ bình đẳng, công bằng và hợp lý; đó là công trình tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Như vậy, nhận thức của Chủ tịch Hồ chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và đạo đức, một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử. Chế độ ấy đồng nhất với văn hóa và là mục tiêu của phát triển. Trong thực tế ta thấy, để có một sự phát triển lành mạnh cần một hệ điều chỉnh, một định hướng nhân văn xã hội. Nói cách khác, văn hóa phải trở thành mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội. Sự phát triển kinh tế phải đưa tới hiệu quả xã hội tốt. Lý thuyết về sự phát triển, do đó có sự thay đổi. Trước đây, nói đến phát triển, nhiều người chỉ nghĩ tới yếu tố kinh tế và kỹ thuật, và tiêu chí của sự phát triển chỉ là thu nhập bình quân theo đầu người, thì ngày nay nhân loại đã đi tới một quan niệm mới về phát triển: coi trọng các yếu tố nhân văn, xã hội. Sự phát triển là sự thay đổi, nhưng đó là sự thay đổi đem lại cuộc sống phồn vinh, có chất lượng được cộng đồng chấp nhận. Đằng sau chỉ tiêu kinh tế phải là hàng loạt các chỉ tiêu về đời sống cụ thể của con người: tuổi thọ bình quân, trình độ học vấn chung của xã hội, vấn đề an sinh xã hội, môi trường xã hội và môi trường tự nhiên… Nói văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế là nói đến tính chất chính trị của nền kinh tế, là nói nền kinh tế đó thuộc về ai và phục vụ cho ai. Trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không hướng sự phát triển kinh tế vào việc cải thiện đời sống của nhân dân lao động. Mục tiêu của nó là mang lại lợi ích tối đa cho các nhà tư bản, các công ty và tập đoàn tư bản. Khi một nền kinh tế chỉ phục vụ cho thiểu số và đối lập với quyền lợi của đa số thì nền kinh tế đó không thể mang lại hiệu quả xã hội tốt. Việc xa rời mục tiêu văn hóa sẽ biến sự tăng trưởng kinh tế thành môi trường thuận lợi cho lối sống hưởng thụ và chủ nghĩa thực dụng. Nền kinh tế lấy văn hóa và con người làm động lực và mục tiêu đòi hỏi phải thường xuyên quan tâm đến hiệu quả xã hội của hoạt động kinh tế, coi phát triển kinh tế là điều kiện để phát triển và hoàn thiện con người, phát triển và hoàn thiện xã hội.

Thực tế phát triển của chủ nghĩa tư bản đã minh chứng rằng, giai cấp tư sản khôn ngoan sử dụng văn hóa như một phương tiện cho tăng trưởng kinh tế, nhưng họ không coi văn hóa là mục tiêu của sự phát triển.

Như đã khẳng định, chủ nghĩa xã hội, về bản chất là một hình thái kinh tế xã hội phát triển, một trạng thái văn hóa cao của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội đích thực đòi hỏi phải sử dụng tối đa các thành tựu văn hóa của nhân loại, và phải vì lợi ích tối đa của con người. Chỉ có như vậy, chủ nghĩa xã hội mới thực sự đạt tới mục tiêu “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”. 

Trong đường lối đổi mới của mình vấn đề văn hóa ngày càng được Đảng ta quan tâm. Nhân tố văn hóa đã từng bước tham gia vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Các Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI đều đặc biệt quan tâm đến việc phát huy nguồn nội lực, coi đó là cơ sở của sự phát triển kinh tế – xã hội. Nói phát huy nội lực là nói phát huy các tiềm năng của con người, của văn hóa dân tộc, coi đó là tài sản quý giá của quốc gia. Các Hội nghị Trung ương bốn khóa VII, Trung ương hai, Trung ương năm, Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII; Trung ương năm, Trung ương mười (khóa IX), Trung ương năm khóa X đã ra các nghị quyết quan trọng về phát triển văn hóa và giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, về tư tưởng – lý luận, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng… Các văn kiện Đảng đã khẳng định: Văn hóa…vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; yêu cầu “ bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX); coi phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ là “quốc sách hàng đầu”; “đầu tư cho văn hóa, giáo dục - đào taọ, khoa học - công nghệ là đầu tư cho phát triển”; “ xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”; “gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn về xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh” v.v..

 Quán triệt và thực hiện tốt định hướng trên đây sẽ góp phần sớm thực hiện tốt mục tiêu văn hóa của việc phát triển kinh tế – xã hội  một cách bền vững của nước ta hiện nay theo tinh thần Đại hội XI của Đảng.



(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HàNội 2000, t.12, tr.747