Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
19:01, ngày 20-03-2025
TCCS - Việt Nam đang ở những thời khắc lịch sử, cùng với lời hiệu triệu của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, như tiếng trống thúc giục cả nước, cả dân tộc vững bước tiến lên với một sự tự tin, niềm tự hào trước kỷ nguyên mới của dân tộc. Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu”(1).
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh _Ảnh: TTXVN
Một số vấn đề đặt ra trong phát triển nguồn nhân lực trước ngưỡng cửa kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ ra rằng: “Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao”(2).
Nhà triết học, nhà thơ vĩ đại người Đức J.W. Goethe (Gớt) đã từng nói: “Biết là không đủ; chúng ta cần phải áp dụng. Ý muốn là không đủ; chúng ta cần phải thực hiện”(3). Rõ ràng, để thực hiện ý kiến chỉ đạo của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư, chúng ta phải biến ý chí thành hành động thực tế. Với tư duy biện chứng, cần nhìn nhận đất nước ta có thuận lợi, thách thức gì, và cần có chủ trương, giải pháp gì để tổ chức thực hiện được nhiệm vụ cao cả đó.
Đất nước ta, dân tộc ta bước vào thế kỷ thứ XXI với những thuận lợi rất cơ bản, là một nước có vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị rất quan trọng trên bản đồ thế giới. Sau những năm đổi mới, chúng ta có tiềm lực vật chất và tinh thần, như tại Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(4). Đất nước ta có một nền chính trị ổn định, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng được trang bị “vũ khí” lý luận là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội, được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng gần 95 năm qua, được nhân dân tin tưởng và gửi trọn niềm tin. Đó là thuận lợi rất cơ bản để chúng ta tự tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Song, đất nước ta cũng đứng trước thách thức trong bối cảnh khó lường của thế giới, trước khó khăn vốn có của một nước đang phát triển với hạn chế rất cần khắc phục sớm. Trong đó, có cả thách thức tự thân, có nghĩa, chúng ta phải chiến thắng chính mình để đi lên.
Để thực hiện được khát vọng của cả dân tộc Việt Nam, chúng ta cần đánh giá đến yếu tố con người, đây là một vấn đề cụ thể rất quan trọng. Con người là nhân tố xây dựng xã hội và phát triển xã hội, là lực lượng lao động, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, trong đó kỹ năng, tư duy, năng lực phát minh, sáng chế, sáng tạo là tố chất đặc biệt quan trọng quyết định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đánh giá của Tổng cục Thống kê năm 2023 cho thấy bức tranh toàn cảnh hiện tại của Việt Nam về dân số và cơ cấu lao động. Cụ thể, Việt Nam là một quốc gia có dân số đông, đến năm 2023 dân số trung bình đã vượt ngưỡng 100 triệu người, đông dân thứ ba trong khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 15 trên thế giới. Cơ cấu dân số của Việt Nam đang dịch chuyển theo hướng tăng tỷ lệ người cao tuổi và giảm tỷ lệ dân số trẻ. Việt Nam hiện đang trong thời kỳ dân số vàng, nhưng cũng trong thời kỳ già hóa dân số (dân số trẻ từ 0 - 14 tuổi giảm từ 24,3% (năm 2019) xuống khoảng 23,9% (năm 2023), nhóm dân số tuổi từ 60 trở lên tăng nhanh từ 11,9% (năm 2019) lên 13,9% (năm 2023)(5). Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2023 đạt 52,4 triệu người (lực lượng ở khu vực thành thị là 19,5 triệu nguời, chiếm 37,3%, khu vực nông thôn là 32,9 triệu người, chiếm 62,7%), tăng 666,5 nghìn người. Số lao động có việc làm đạt 51,3 triệu người, số người thất nghiệp là 1,07 triệu, tỷ lệ thất nghiệp là 2,28%, số người thiếu việc làm là 918,5 nghìn người. Tình hình lao động cho thấy:
Mặt tích cực: 1- Lực lượng lao động và số người có việc làm có xu thế tăng; 2- Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2023 là 27%, tăng so với năm trước; 3- Thu nhập bình quân hằng tháng của người lao động là 7,1 triệu đồng, tăng 6,9% so với năm trước; 4- Tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm có cải thiện…
Điểm hạn chế: 1- Về chất lượng, cung lao động còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Khoảng 38 triệu người lao động chưa qua đào tạo từ sơ cấp trở lên. Con số này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động; 2- Số người lao động đang làm việc có xu hướng tăng, nhưng thị trường lao động chưa có sự cải thiện về chất lượng lao động, khi số lao động phi chính thức làm công việc bấp bênh, thiếu ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn; 3- Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp còn cao, năm 2023 là 7,63% và chiếm 41,3% tổng số người thất nghiệp. Số thanh niên từ 15 tuổi - 24 tuổi không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo khoảng 1,5 triệu người, chiếm 11,5% tổng số thanh niên; 4- Số lao động không sử dụng hết tiềm năng là 2,3 triệu người, chiếm 4,3% tổng sốlao động(6).
Số liệu trên cho thấy, nguồn nhân lực của Việt Nam khá dồi dào về số lượng, xét cả hai tiêu chí về quy mô dân số và tốc độ tăng dân số, mặc dù đã xuất hiện dấu hiệu ở một số khu vực đô thị và vùng về tỷ lệ sinh giảm, không bảo đảm mức sinh thay thế, song, số lao động hằng năm vẫn tăng, nguồn nhân lực trẻ vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện, nhưng chưa thể đáp ứng yêu cầu về số lượng, nhất là lực lượng lao động chất lượng cao, lao động có sức khỏe cả về trí và lực, có kiến thức, có kỹ năng và sức sáng tạo. Đây là vốn quý, là tài nguyên, là lực lượng quyết định đến năng suất lao động, giá trị gia tăng, sức phát triển, sức cạnh tranh và khả năng độc lập, tự chủ của một quốc gia. Đây cũng chính là đòn bẩy, tạo sức bật để chúng ta vượt qua nguy cơ bẫy thu nhập trung bình khi Việt Nam đạt được mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và phấn đấu trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045. Có thể nói, để phát triển kinh tế - xã hội, có nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quyết định và động lực chính là nguồn lực con người, nguồn lực lao động, trong đó tiên phong là nguồn lao động có chất lượng cao.
Nhìn ra thế giới, từ bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc, một quốc gia có một số điểm tương đồng với Việt Nam, có thể thấy nhiều kinh nghiệm trong phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, để tạo ra kỳ tích từ một quốc gia trải qua chiến tranh, nghèo đói, có thu nhập thấp nhất, trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao trên thế: 1- Trước hết, Hàn Quốc đã xây dựng một chiến lược phát triển quốc gia về nguồn nhân lực, có một kế hoạch dự báo nhân sự và phân bố nhân sự để bảo đảm sự cân đối giữa nhu cầu nguồn nhân lực và nguồn cung, trên cơ sở đó, xây dựng chính sách dân số và chính sách phân bổ nhân sự bảo đảm nguồn cung cho nền kinh tế phù hợp với từng giai đoạn; 2- Tiến hành nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại, nhằm cung cấp nền tảng vững chắc và phát triển kỹ năng cơ bản cho người học từ cấp tiểu học đến đại học, đồng thời thúc đẩy chính sách đào tạo nghề, bảo đảm nguồn nhân lực có kỹ năng phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Năm 2021, Hàn Quốc đã công bố chính sách kinh tế mới phiên bản Hàn Quốc 2.0, trong đó phân bổ 50.000 tỷ won cho tới năm 2025 để tăng cường đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực trọng điểm, như bồi dưỡng khoảng 89.000 nhân tài phát triển phần mềm có kỹ năng chuyên môn cao, trên 8.000 nhân tài ở lĩnh vực sản xuất chíp bán dẫn hệ thống, 20.000 nhân tài ở lĩnh vực sức khỏe sinh học và trên 3.000 nhân tài cho lĩnh vực ô-tô. Tăng cường hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên; thúc đẩy đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng giáo dục; duy trì kỳ thi quan trọng theo hướng điều chỉnh giảm áp lực cho học sinh, tạo cơ hội cho phát triển sáng tạo, như kỳ thi trung học phổ thông và thi đại học; 3- Có chính sách khuyến khích đổi mới và phát triển trong lĩnh vực công nghiệp chất lượng cao. Doanh nghiệp, tổ chức được khuyến khích tham gia nghiên cứu, phát triển, bảo đảm nguồn nhân lực được đào tạo với kỹ năng và kiến thức mới nhất, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chất lượng cao, như công nghệ thông tin, khoa học, công nghiệp sáng tạo...; 4- Có chính sách lao động và phúc lợi, để cải thiện phúc lợi và điều kiện làm việc nhằm giữ chân lao động có tài năng và tăng cường sự hấp dẫn của quốc gia trong thị trường toàn cầu; 5- Có chính sách hỗ trợ gia đình, chính sách nghỉ phép linh hoạt, hỗ trợ giáo dục, văn hóa và chăm sóc trẻ em cho hộ gia đình có thu nhập thấp để thu hẹp khoảng cách thu nhập, giúp cân bằng giữa công việc và gia đình, mục tiêu cũng là để giữ chân lao động chất lượng cao(7).
Nhìn tổng thể, chúng ta có đường lối, chủ trương và chính sách khá toàn diện của Đảng và Nhà nước về dân số, về đào tạo nguồn nhân lực và thu hút nhân tài, về xây dựng thị trường lao động, phân bổ lao động theo cơ chế thị trường. Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua, chúng ta đã tăng cường lực lượng lao động về cả chất và lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đặt ra trong cân đối nguồn nhân lực, góp phần quyết định vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo nên những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp phát triển đất nước. Chúng ta có thể tự tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, dù có nhiều cố gắng, nhưng kết quả phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam còn khá khiêm tốn so với Hàn Quốc tính trong cùng một khoảng thời gian 40 năm: với Hàn Quốc là từ năm 1961 đến năm 2000 và Việt Nam là từ năm 1986 đến nay. Tất nhiên, chúng ta mất hơn 8 năm (1986 - 1994) so với Hàn Quốc khi vẫn phải giải quyết vấn đề của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và chính sách cấm vận. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc trong 40 năm (từ năm 1961 đến năm 2000) bình quân là 7,83%, chỉ số này từng chạm ngưỡng kỷ lục 14,83% vào năm 1973; 14,54% vào năm 1969 và 13,12% vào năm 1976. GDP Hàn Quốc năm 1960 là 3,957 tỷ USD. Nhưng đến năm 1985, GDP quốc gia này lần đầu vượt ngưỡng 100 tỷ USD và tiếp tục đà tăng mạnh mẽ. Hai mươi mốt năm sau, GDP Hàn Quốc vượt mốc 1.000 tỷ USD và đạt 1.619 tỷ USD vào năm 2018. Năm 2020, nền kinh tế Hàn Quốc đứng thứ 21 trên tổng số 205 nước trên thế giới với thu nhập bình quân đầu người đạt 30.000 USD, đứng thứ 30 toàn cầu(8).
Với Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, mặc dù cũng có giai đoạn tăng trưởng ngoạn mục, có những năm tăng đến 8% - 9%, nhưng tăng trưởng trung bình từ năm 1986 đến năm 2019 chỉ đạt 6,6%. Giai đoạn 2011 - 2020 có dấu hiệu giảm sút, tăng trưởng bình quân chỉ đạt 5,95%. Có nhiều nguyên nhân khiến Việt Nam chưa thể đạt kỳ tích như Hàn Quốc, nhưng trong đó có nguyên nhân đến từ chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Nghiên cứu khoa học tại phòng thí nghiệm Trung tâm Nano và công nghệ, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội _Nguồn: tiasang.com.vn
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần sớm thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, đổi mới tư duy, nhận thức về vấn đề dân số, lao động và việc làm; về giáo dục, đào tạo, văn hóa và chăm sóc sức khỏe người dân; về xây dựng xã hội và quản lý phát triển xã hội, lấy con người làm trung tâm; về tăng trưởng hài hòa và bền vững nền kinh tế trong tình hình mới. Nhận thức này không chỉ cần được đổi mới trong hệ thống chính trị, mà cần được chuyển tải sâu sắc tới cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân.
Hai là, phải xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế; tập trung xây dựng chiến lược, kế hoạch về dân số; xây dựng và phân bổ nguồn nhân lực… Trước hết, có cơ chế và chính sách duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm tổng tỷ suất sinh là 2,1 con/một phụ nữ, nhằm khắc phục tình trạng có năm tổng tỷ suất sinh chỉ còn bình quân 1,9 con (năm 2023), thấp nhất từ trước đến nay. Nếu tình trạng này diễn biến xấu sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn nhân lực của quốc gia trong tương lai.
Tiếp đó, bên cạnh sự di chuyển nguồn lực theo cơ chế thị trường, Nhà nước cần có chính sách đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp và nguồn nhân lực dịch chuyển vào lĩnh vực công nghệ mới, cần lao động chất lượng cao, như công nghệ số, công nghệ trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học,… Chính sách này phải là một hệ thống đồng bộ, từ chính sách thuế, tiền thuê đất, tạo hạ tầng kỹ thuật, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho doanh nghiệp, đến hỗ trợ đào tạo, văn hóa, y tế, bảo hiểm, phúc lợi xã hội và các chính sách hỗ trợ gia đình để giảm áp lực lên người lao động, khuyến khích họ lao động, sáng tạo.
Ba là, giáo dục và đào tạo luôn là chính sách hàng đầu, là nền tảng chấn hưng và phát triển của quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Do đó, phải có một triết lý và mục tiêu giáo dục, đào tạo rõ ràng. Giáo dục không chỉ là phổ cập kiến thức phổ thông, tạo ra một lượng kiến thức khổng lồ nạp vào giới trẻ, mà phải tập trung giáo dục khả năng tư duy sáng tạo, kỹ năng làm việc, kỹ năng sống, trên cơ sở cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản, là nền tảng cho học sinh bước vào giai đoạn đào tạo nghề, đào tạo đại học và ở bậc cao hơn theo phân luồng, theo chọn lọc, theo nhu cầu của thị trường và theo định hướng đào tạo do Nhà nước dẫn dắt, như đào tạo nhân tài, nhân lực cho lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới mà doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận không đầu tư.
Bốn là, Nhà nước đang có chủ trương đầu tư vào các dự án lớn với số vốn lớn, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, công nghệ mới, như Sân bay Long Thành, đường sắt cao tốc, tái khởi động Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, chuyển đổi số quốc gia… Đây là cơ hội quý báu, không chỉ để chúng ta đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các dự án này, mà còn là cơ sở để thay đổi cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng lao động, đào tạo lao động có chất lượng cao cho cả nền kinh tế. Cần tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tham gia các dự án này với mức độ cao nhất ở các cấu phần, kể cả cấu phần cần đầu tư nghiên cứu, sáng tạo, tiếp cận với công nghệ mới trong nước chưa có, để khuyến khích doanh nghiệp trong nước và lực lượng lao động trong nước đổi mới sáng tạo. Tránh tình trạng chỉ cung cấp sản phẩm, thiết bị, vật liệu mà doanh nghiệp đã sản xuất được, trong khi công nghệ mới, sản phẩm mới, đều phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Năm là, việc thu hút đầu tư nước ngoài trong những năm qua đã đem lại kết quả rất quan trọng, trở thành một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động, tăng thu ngân sách. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm trong quản lý, trong tổ chức lao động và hình thành kỹ năng sản xuất công nghiệp cho người lao động, nhưng vấn đề chuyển giao công nghệ và đào tạo lực lượng lao động chất lượng còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài chỉ sử dụng lực lượng lao động trẻ, đào tạo kỹ năng lao động giản đơn, khi không đáp ứng được công việc sẽ sa thải. Tình trạng này dẫn đến nguy cơ thất nghiệp với một số lượng lớn lao động còn độ tuổi lao động nhưng không có kỹ năng lao động, tạo áp lực lớn cho Nhà nước và xã hội về giải quyết việc làm và thực hiện an sinh xã hội. Do vậy, cần có chính sách đối với doanh nghiệp FDI các yêu cầu về chuyển giao công nghệ, đào tạo lao động chất lượng cao và giải quyết quyền lợi cho người lao động khi mất việc làm.
Sáu là, công tác tổ chức thực hiện của chúng ta luôn là khâu còn nhiều hạn chế, yếu kém. Dù có chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, nhưng không tổ chức thực hiện tốt, thì chủ trương, đường lối, chính sách đó chỉ là ý chí, không đi vào cuộc sống. Do vậy, cần chủ động, sáng tạo, có quyết tâm thực hiện thì mới thành công. Một trong những căn bệnh khiến công tác tổ chức thực hiện gặp khó khăn, nhiều “điểm nghẽn”, đó là công tác tổ chức bộ máy và cán bộ còn nhiều khiếm khuyết. Do vậy, cần thực hiện nghiêm túc tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm: “Cần khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”(9).
Với tinh thần cách mạng và ý chí quyết tâm, chúng ta hoàn toàn tin tưởng sẽ thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng là: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội”(10) đưa đất nước ta vững bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam ./.
--------------------
(1), (2) Minh Châu: “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 25-11-2024
(3) Xem: Kim Hương: “Goethe là ai? 30 câu nói hay của nhà thơ vĩ đại Johann Wolgang von Geothe”, Trang tin của Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (VOH online), ngày 7-6-2022
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, t. I, tr. 25
(5) Xem: Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí về tình hình dân số, lao động, việc làm quý IV và năm 2023
(6) Tổng cục Thống kê: Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/
(7) Đỗ Thị Tâm: “Chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc - Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước, ngày 18-1-2024, https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/01/18/chien-luoc-va-chinh-sach-phat-trien-nguon-nhan-luc-cua-han-quoc-kinh-nghiem-cho-viet-nam/
(8) Xem: “Từ nghèo đói, Hàn Quốc thành quốc gia phát triển như thế nào”, Báo điện tử Vietnamnet, ngày 5-9-2020, https://vietnamnet.vn/tu-ngheo-doi-han-quoc-thanh-quoc-gia-phat-trien-nhu-the-nao-671673.html
(9) Tô Lâm: “Cuộc “cách mạng” về tinh gọn tổ chức bộ máy”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 7-11-2024
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, t. II, tr. 128