Tiếp tục đổi mới công tác dân tộc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay
TCCS - Vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn được Đảng ta xác định có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta trong lãnh đạo thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân tộc là: “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”(1). Vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc, đề ra nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc và miền núi.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc ngày càng được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 27-11-1989, “Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi”; Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thể chế hóa Nghị quyết của Đảng thành Quyết định số 72-HĐBT, ngày 13-3-1990, “Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi”. Hai văn kiện này đã mở đường cho sự đổi mới công tác dân tộc. Hội nghị Trung ương 7 khóa IX của Đảng đã ra Nghị quyết Về công tác dân tộc, với chủ trương, quan điểm phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Trong những năm qua, được sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ trong việc thể chế thành chính sách, cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, sự đồng thuận, nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc, ngành công tác dân tộc đã đạt được những dấu ấn quan trọng: Tham mưu giúp Ban Bí thư Trung ương Đảng tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX và Kết luận số 57- KL/TW của Bộ Chính trị khóa X về công tác dân tộc; tham mưu xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc - văn bản có tính pháp lý cao nhất của ngành từ khi thành lập đến nay; tham mưu với Đảng, Nhà nước tổ chức thành công Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam ở 3 cấp (huyện, tỉnh và toàn quốc);...
Ủy ban Dân tộc từ đầu nhiệm kỳ XIII (2011 - 2016) đến nay đã xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình hành động toàn khóa với 7 nhiệm vụ trọng tâm; tham mưu xây dựng mới và bổ sung, sửa đổi một số chính sách hiện hành, như Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 (Quyết định số 449/QĐ-TTg, ngày 12-3-2013); về việc tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2015 (Quyết định số 33/2013/QĐ-TTg, ngày 4-6-2013); Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn (Quyết định số 551/QĐ-TTg, ngày 4-4-2013); về chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2015 (Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg, ngày 4-12-2012); xây dựng Đề án thành lập Học viện Dân tộc gắn với đào tạo nguồn nhân lực cho vùng dân tộc và miền núi;… Ủy ban Dân tộc với chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; cùng các bộ, ngành tham mưu cho Đảng, Nhà nước và Chính phủ xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, chính sách quan trọng... đã góp phần làm thay đổi đáng kể bộ mặt vùng dân tộc và miền núi. Từ đó tạo bước chuyển lớn về nhận thức của các bộ, ngành, địa phương về tham mưu xây dựng chính sách dân tộc cho vùng dân tộc và miền núi, căn cứ vào thực tế, xuất phát từ lợi ích của đồng bào dân tộc, có sự tham gia của cộng đồng; chuyển từ tư duy ban hành chính sách mang tính nhiệm kỳ, ngắn hạn trước đây sang tư duy ban hành chính sách dân tộc trung hạn và dài hạn. Công tác đối ngoại về lĩnh vực công tác dân tộc trong thời kỳ hội nhập tiếp tục được thực hiện có hiệu quả, Ủy ban Dân tộc đã ký kết Thoả thuận hợp tác giai đoạn 2012 - 2020 với Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Bộ Phát triển xã hội và An ninh con người của Thái Lan, Bộ Biên giới Mi-an-ma; ký biên bản ghi nhớ với Đại sứ quán Ai-len tại Việt Nam; tiếp tục chỉ đạo xây dựng đề án thu hút đầu tư của các tổ chức quốc tế cho vùng dân tộc và miền núi.
Những thành tựu quan trọng của công tác dân tộc thời gian qua
Công tác dân tộc thời gian qua đã góp phần tích cực làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thôn vùng dân tộc và miền núi, sản xuất ở một số vùng đã có bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên từng bước, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt. Theo báo cáo của các địa phương vùng dân tộc và miền núi, chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đều đạt và vượt, bình quân khoảng 3% - 4%/năm, cụ thể là: Các tỉnh vùng Đông Bắc giảm 3,62%; Tây Bắc giảm 4,47%; Tây Nguyên giảm 3,04%; đồng bằng sông Cửu Long giảm 2,15%. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thay đổi rõ rệt: 98,6% số xã có đường ô-tô đến trụ sở ủy ban nhân dân xã; có 99,8% số xã và 95,5% số thôn có điện(2).
Sản xuất nông, lâm nghiệp vùng dân tộc và miền núi có chuyển biến tích cực. Những nơi có điều kiện thuận lợi đang hình thành các vùng chuyên canh, trang trại sản xuất hàng hóa tập trung. Đồng bào đã sử dụng giống mới, dịch vụ bảo vệ thực vật, ứng dụng kỹ thuật bảo quản nông sản ngày một nhiều. Cuộc sống của đồng bào ở khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đang từng bước gắn với lợi ích từ việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng.
Công tác giáo dục có nhiều tiến bộ: 99,5% số xã có trường tiểu học; 93,2% số xã có trường trung học cơ sở; 12,9% số xã có trường trung học phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non(3); 100% số xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Loại hình trường nội trú, bán trú đang phát triển, hiện nay cả nước có 294 trường phổ thông dân tộc nội trú với 80.832 học sinh; 4 trường dự bị đại học với trên 3.000 học sinh/năm(4). Tất cả các tỉnh vùng dân tộc và miền núi đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế,...
Mạng lưới y tế phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu tư, có 99,39% số xã có trạm y tế, 77,8% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Năm 2011, có 94,2% số thôn có cán bộ y tế thôn(5). Đồng bào dân tộc được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, người nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí và được hưởng chính sách bảo hiểm y tế đúng quy định. Các dịch bệnh ở vùng dân tộc và miền núi, như sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm đáng kể.
Giá trị văn hóa các dân tộc tiếp tục được quan tâm, bảo tồn và phát huy, như khôi phục các lễ hội truyền thống, tổ chức Ngày hội văn hóa - nghệ thuật, thể thao khu vực, thi trang phục truyền thống các dân tộc Việt Nam,... Mạng lưới thông tin, văn hóa, thể thao nông thôn có sự phát triển nhanh, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. Năm 2011, 81,5% số xã có hệ thống loa truyền thanh đến thôn; 38,7% số xã có nhà văn hóa xã; 48% số xã có sân thể thao(6).
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc và miền núi có chuyển biến tốt, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với người dân. Công tác vận động nhân dân, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng được chú trọng. Bình đẳng giới từng bước được tạo lập giúp người dân nâng cao nhận thức, vươn lên phát huy vai trò của bản thân trong gia đình và xã hội.
Hệ thống chính trị vùng dân tộc thường xuyên được xây dựng, củng cố và ngày càng phát triển, nhất là hệ thống chính trị cơ sở. Hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc từng bước được kiện toàn với 3 cấp: Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện. Tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Đồng bào các dân tộc đoàn kết, tin tưởng vào đường lối đổi mới, thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch; củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị vùng dân tộc và miền núi.
Một số khó khăn, thách thức của công tác dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Thứ nhất, hệ thống chính sách vùng dân tộc và miền núi so với giai đoạn trước có nhiều ưu điểm, nhưng còn bộc lộ không ít hạn chế, yếu kém, như chính sách còn mang tính nhiệm kỳ, thời gian thực hiện ngắn, thiếu tính chiến lược lâu dài; trình tự thủ tục xây dựng và trình một số đề án chính sách mất nhiều thời gian, nên khi chính sách được ban hành thì thời gian thực hiện còn lại rất ngắn; một số chính sách còn chồng chéo về đối tượng, địa bàn thụ hưởng; hầu hết các chính sách đều mang tính chất hỗ trợ; chính sách đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản, do vậy hiệu quả của chính sách chưa thực sự bền vững; nhiều chính sách khi hết hiệu lực mục tiêu không đạt do nguồn vốn Trung ương cấp không đủ, phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến định mức không còn phù hợp với thực tế; có chính sách do huy động nhiều nguồn vốn, khi cấp vốn không đồng bộ dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện; việc bố trí vốn đối ứng của các địa phương gặp khó khăn do đa số các địa phương vùng dân tộc và miền núi đều phải nhận trợ cấp từ ngân sách Trung ương.
Việc xây dựng một số chính sách chưa thật sự dựa trên cơ sở khoa học, thiếu thực tế, không phù hợp với địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Tổ chức thực hiện chính sách còn nhiều yếu kém, phân công chủ trì chỉ đạo tổ chức thực hiện một số chính sách chưa hợp lý; việc phối hợp giữa các bộ, ngành có lĩnh vực chưa chặt chẽ, chỉ đạo có mặt còn chồng chéo, trùng lắp về địa bàn và đối tượng. Việc lồng ghép các chính sách trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi còn nhiều khó khăn, bất cập. Công tác kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách còn hạn chế. Việc kiểm tra, đánh giá thực hiện chính sách dân tộc ở các bộ, ngành Trung ương chưa được quan tâm đúng mức. Chỉ đạo, thực hiện chính sách ở một số địa phương còn lúng túng. Công tác lập kế hoạch, rà soát đối tượng thụ hưởng trong việc thực hiện một số chính sách chưa sát với thực tế.
Thứ hai, những khó khăn, yếu kém ở vùng dân tộc và miền núi: Kinh tế chậm phát triển so với tiềm năng của vùng và chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Sản phẩm sản xuất ra chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu và yếu kém: Hiện còn 535/1.848 xã chưa có đường cứng hóa đến trung tâm xã, chỉ đi được một mùa khô; 14.093 thôn, bản chưa có đường ô-tô; 204/1.848 xã chưa có điện lưới quốc gia đến trung tâm xã và trên 8.100 thôn, bản chưa được sử dụng điện lưới quốc gia; 304 xã đặc biệt khó khăn chưa đủ lớp học kiên cố; 15.930 thôn, bản chưa có nhà trẻ, mẫu giáo; 758 xã chưa có nhà văn hóa(7);...
Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo vùng dân tộc và miền núi cao nhất cả nước. Năm 2012, tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi Tây Bắc là 28,55%, miền núi Đông Bắc: 17,39%; Tây Nguyên: 15,58%; các tỉnh Bắc Trung Bộ: 15,01%(8). Các xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo là 45%, cá biệt có những xã, thôn nhóm dân tộc rất ít người tỷ lệ nghèo lên tới trên 90%(9). Kết quả giảm nghèo thiếu tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Một bộ phận đồng bào vẫn còn thiếu đói, nhất là vào những tháng giáp hạt hoặc sau những đợt thiên tai. Có trên 220.000 hộ thiếu đất sản xuất, nếu tính cả số hộ thiếu nước sinh hoạt theo đối tượng thực hiện Quyết định số 1592/QĐ-TTg thì con số đó lên tới 579.804 hộ.
Chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi thấp: 21% số người trong độ tuổi đi học không biết đọc, biết viết chữ phổ thông; số người trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo chiếm 89,5%, riêng dân tộc thiểu số chưa qua đào tạo chiếm 94,2% (cao nhất là các dân tộc, như dân tộc Mông: 98,7%; Khmer: 97,7%; Thái: 94,6%; Mường: 93,3%); chất lượng đào tạo nghề thấp(10). Việc thực hiện một số chính sách ưu đãi về giáo dục cho vùng dân tộc và miền núi (chế độ cử tuyển, dự bị đại học, trường dân tộc nội trú, chế độ ưu đãi giáo viên, cán bộ các trường chuyên biệt,...) mặc dù thu được những kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, nguồn cán bộ cho sự phát triển bền vững của vùng dân tộc và miền núi.
Tình trạng du canh, du cư, di cư tự do, chặt phá rừng, khiếu kiện, tranh chấp đất đai, hoạt động tôn giáo trái pháp luật có nơi diễn biến phức tạp, tạo ra một số vụ việc nổi cộm ở vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ,... tiềm ẩn những yếu tố bất ổn. Hiện nay, 19.891 hộ với 94.126 nhân khẩu dân tộc thiểu số chưa được định canh, định cư để ổn định cuộc sống lâu dài(11).
Chất lượng dân số vùng dân tộc thiểu số thấp, tuổi thọ bình quân của 16 dân tộc thiểu số rất ít người thấp hơn tuổi thọ dân số trung bình cả nước là 12,8 tuổi (tuổi thọ bình quân cả nước là 72,8 tuổi)(12). Đội ngũ cán bộ y tế vùng dân tộc và miền núi vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số. Trang thiết bị y tế thiếu và lạc hậu, phần lớn người nghèo vùng dân tộc và miền núi không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng tốt. Văn hóa truyền thống tốt đẹp của một số dân tộc đang bị mai một, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục. Nguy cơ mất bản sắc văn hóa riêng và bị đồng hóa đang hiện hữu đối với một số dân tộc thiểu số rất ít người.
Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi còn yếu, đặc biệt đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ còn hạn chế, nhất là thiếu đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hoặc có cán bộ dân tộc nhưng chưa được đào tạo. Tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong chính quyền cấp huyện và tỉnh tại các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp (khoảng 10,9% và 11,32%). Trong tổng số 48.200 cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã, số người có trình độ học vấn trung học cơ sở chiếm 45%, tiểu học là 18,7%, chỉ có 1,9% có trình độ cao đẳng và đại học(13).
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, công tác dân tộc đang có những thách thức chủ yếu là:
- Khoảng cách giàu - nghèo, chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân tộc ngày càng lớn; tỷ lệ nghèo ở các vùng dân tộc và miền núi cao hơn 2,5 lần so với bình quân chung của cả nước. Đặc biệt là những khó khăn, thiếu thốn ở các “vùng lõi” của đói nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc và miền núi từ các tỉnh phía Bắc đến các tỉnh phía Nam.
- Nhu cầu nguồn lực đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu theo Nghị quyết của Chính phủ về định mức giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2011 - 2020 là rất lớn, sẽ vượt quá khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước. Chất lượng các công trình kết cấu hạ tầng, như giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa còn thấp. Nguồn vốn đầu tư cho các chính sách chưa đáp ứng nhu cầu mục tiêu.
- Chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng dịch vụ công còn thấp; đội ngũ cán bộ cơ sở thiếu và chất lượng chưa cao.
- Vấn đề ổn định chính trị và an ninh quốc phòng vùng dân tộc và miền núi; âm mưu của các thế lực phản động lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động ly khai, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc.
Tiếp tục đổi mới công tác dân tộc trong thời gian tới
1- Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ của ngành công tác dân tộc. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương, chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động đồng bào tích cực thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc.
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về công tác dân tộc chỉ rõ: “Xây dựng tiêu chuẩn công chức làm công tác dân tộc. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc. Tuyển chọn, tăng cường cán bộ giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt về cơ quan làm công tác dân tộc ở các cấp”. Đội ngũ cán bộ trong toàn ngành phải rất nỗ lực, cố gắng nâng cao trình độ chuyên môn, thực sự tâm huyết, gắn bó với nghề. Chú trọng đổi mới công tác tổ chức cán bộ và chọn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc là khâu đột phá, là “mắt xích” quan trọng, là đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
2- Quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của vùng dân tộc và miền núi; vì vậy, cần quan tâm đến chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng chăm sóc sức khỏe đồng bào. Thành lập Học viện Dân tộc gắn với đào tạo nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi.
Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục miền núi thông qua việc đầu tư xây dựng trường phổ thông bán trú dân nuôi tại các xã; trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện, cấp tỉnh. Đa dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc và miền núi; đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú; tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu tiên, chính sách cử tuyển cho con em các dân tộc thiểu số vào các trường đại học, cao đẳng, mở thêm trường dự bị đại học dân tộc. Thực hiện tốt nhiệm vụ phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp tại trường phổ thông dân tộc nội trú, các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề. Có chính sách và chế tài trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số tại chỗ sau khi tốt nghiệp các trường.
Phát triển sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng tăng khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế có chất lượng. Tiếp tục thực hiện chính sách phát thẻ bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số.
3- Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến lược công tác dân tộc và các chính sách cho từng vùng giai đoạn 2011 - 2015 đến năm 2020. Đồng thời, thực hiện Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn. Thực hiện tốt chính sách định canh, định cư; làm tốt công tác quy hoạch, sắp xếp, bố trí dân cư hợp lý gắn với nhiệm vụ bảo đảm an ninh - quốc phòng.
4- Ưu tiên bảo đảm nguồn lực cho thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo được ban hành; huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư, phát triển, trước hết tập trung cho các vùng đặc biệt khó khăn (vùng “lõi nghèo”), tránh đầu tư dàn trải, lãng phí. Thực hiện nghiêm chỉnh việc phân cấp cho cơ sở, công khai các chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư,... để đồng bào biết và tham gia quản lý, giám sát quá trình thực hiện.
Điều chỉnh lại cơ chế quản lý thực hiện chính sách dân tộc theo hướng xây dựng chương trình, chính sách tổng hợp, đa mục tiêu, dài hạn. Thống nhất đầu mối cơ quan chủ trì, tổ chức thực hiện chính sách đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân tộc.
5- Xây dựng, củng cố toàn diện, đồng bộ và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc và miền núi. Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số tại chỗ. Tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra những điểm “nóng” về an ninh, trật tự ở vùng dân tộc và miền núi.
6- Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động và tổ chức đồng bào tích cực, chủ động tham gia thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phát huy dân chủ ở cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tích cực, chủ động xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực tự cường, nỗ lực vươn lên thoát nghèo, nhanh chóng hội nhập với sự phát triển chung của đất nước.
Chăm lo xây dựng và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và bản sắc dân tộc; từng bước xây dựng tiến tới hoàn thiện thiết chế văn hóa cơ sở vùng dân tộc và miền núi; hỗ trợ, tạo điều kiện cho những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi được hưởng thụ những thành tựu của sự phát triển do công cuộc đổi mới đem lại./.
-----------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
(2) Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 của Tổng cục Thống kê
(3) Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại buổi làm việc giữa Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 1-6-2012
(4), (5) Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 của Tổng cục Thống kê
(6) Văn kiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi năm 2014 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020
(7) Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(8) Văn kiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi năm 2014 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020
(9) Đề án xây dựng Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, chuyển đổi nghề, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2013 - 2016
(10) Đề án Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi đến năm 2015, định hướng đến năm 2020
(11) Báo cáo sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05-3-2007 và Quyết định số 1342/QĐ-TTg ngày 25-8-2009 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình định canh, định cư
(12) Đề án Hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2012 - 2016
(13) Đề án thành lập Học viện Dân tộc
Triển khai sâu rộng Nghị quyết Trung ương 8  (26/12/2013)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên