Để nâng tầm đối ngoại đa phương Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
TCCS - Đối ngoại đa phương đang ngày càng trở thành xu thế nổi bật trong quan hệ quốc tế hiện nay, và đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị - kinh tế - đối ngoại của thế giới. Trong những năm qua, đối ngoại đa phương Việt Nam được mở rộng và đi vào chiều sâu ở tất cả các kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần củng cố, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối ngoại đa phương Việt Nam trong tiến trình phát triển đất nước
Trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đối ngoại đa phương đã góp phần hình thành mặt trận quốc tế rộng rãi ủng hộ và hỗ trợ Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Bước vào thời kỳ đổi mới, đối ngoại đa phương góp phần phá thế bao vây, cấm vận, thoát khỏi thế “kẹt”, khai thông quan hệ với các nước, đóng góp vào tiến trình phát triển chung của cả nước. Trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam ngày càng chủ động, tích cực tham gia sâu vào các thể chế toàn cầu, khu vực, đối ngoại đa phương đã trở thành mũi nhọn của chính sách đối ngoại trong việc góp phần thúc đẩy lợi ích quốc gia, củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ nhất, đối ngoại đa phương đóng góp thiết thực vào việc tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước. Thông qua hợp tác đa phương, Việt Nam đã mở rộng thị trường, thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư, du lịch, khoa học - công nghệ, tận dụng tốt các nguồn vay ưu đãi để thúc đẩy phát triển kinh tế. Các cơ chế hợp tác là kênh quan trọng giúp Việt Nam thu hút được nguồn lực từ các đối tác phát triển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng, liên kết vùng, xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy thương mại. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội giúp Việt Nam tiếp cận được với công nghệ mới và các thị trường rộng lớn trên thế giới, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần tạo thế và lực cho đất nước. Sau 10 năm gia nhập WTO, mặc dù bị ảnh hưởng bởi tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, khủng hoảng nợ công nhưng Việt Nam vẫn duy trì được chuỗi tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,29%/năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng theo đà tăng mạnh. Năm 2006, Việt Nam chỉ thu hút được 10 tỷ USD vốn FDI, nhưng đến năm 2007 đã lên tới 21,3 tỷ USD và đạt 64 tỷ USD vào năm 2008 (1). Đến năm 2017, FDI vào Việt Nam tăng vọt 36 tỷ USD - mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây (2). Từ những kết quả đạt được trong xuất khẩu, thu hút đầu tư, GDP của Việt Nam hiện đã đạt mức trên 200 tỷ USD, gấp 4 lần năm 2006 (53 tỷ USD); nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình.
Thứ hai, đối ngoại đa phương góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Nếu như việc tham gia ASEAN năm 1995 chính thức đánh dấu tiến trình Việt Nam hội nhập khu vực, và bắt đầu tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thì việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2007 là bước đi quan trọng, mở ra giai đoạn mới, góp phần đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng và toàn diện hơn vào “sân chơi” toàn cầu.
Việc Việt Nam tích cực tham gia vào hầu hết các cơ chế hợp tác, liên kết kinh tế đa phương từ cấp độ toàn cầu (WTO, WB, IMF…), liên khu vực (ASEM, APEC, FEALAC…), khu vực (ASEAN, ADB…) cho đến mạng lưới các FTA với hầu hết các trung tâm kinh tế - thương mại hàng đầu thế giới cho thấy Việt Nam ngày càng gắn kết sâu rộng hơn với thế giới, là nền kinh tế có độ mở cao hàng đầu khu vực Đông Nam Á, một “mắt xích” trong các liên kết kinh tế khu vực và liên khu vực quan trọng. Việc tham gia các FTA thế hệ mới, nhất là CPTPP và EVFTA, là những đột phá quan trọng của hội nhập quốc tế của nước ta. Với 16 FTA đã thực thi, đang đàm phán và chuẩn bị phê chuẩn, Việt Nam trở thành tâm điểm của mạng lưới kết nối FTA sâu rộng và toàn diện chiếm 59% dân số thế giới, 61% GDP và 68% thương mại toàn cầu, góp phần tăng đan xen lợi ích với hầu hết các trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới (3). Như vậy, gia nhập WTO đã tạo đà cho hội nhập quốc tế của Việt Nam toàn diện, đa chiều, đa lĩnh vực. Và dù tham gia hội nhập quốc tế ở cấp độ và hình thức nào, Việt Nam cũng được đánh giá là thành viên tích cực, có trách nhiệm và thực thi nghiêm túc các cam kết hội nhập quốc tế.
Thứ ba, đối ngoại đa phương góp phần ủng cố và phát triển quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó có nhiều đối tác hàng đầu. Đồng thời, sự phối hợp, chia sẻ quan điểm trong các cuộc tiếp xúc đa phương nhằm thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các nước thêm phần tin cậy, hiểu biết và dành được thiện cảm của các nước. Mặt khác, với tư cách là thành viên của các tổ chức, diễn đàn và hội nghị quốc tế, Việt Nam là một đối tác bình đẳng với các nước, tạo cơ hội cho Việt Nam đối thoại và giải quyết các vấn đề song phương với các đối tác của mình, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các nước. Quan hệ song phương giữa Việt Nam với các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện “tạo ra bước chuyển mới về chất” trong hoạt động đối ngoại của ta trong giai đoạn mới.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước và vùng lãnh thổ, thiết lập và triển khai hiệu quả nhiều khuôn khổ hợp tác với các nước lớn, các nước công nghiệp phát triển, củng cố và thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống, thiết lập quan hệ với 16 đối tác chiến lược và 14 đối tác toàn diện, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức, cơ chế đa phương khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, Cộng đồng Pháp ngữ, Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)…; đã tham gia, ký kết và đàm phán 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA).
Thứ tư, đối ngoại đa phương góp phần duy trì, tiếp tục củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Thông qua các cơ chế, diễn đàn đa phương, Việt Nam thường xuyên đưa ra các quan điểm rõ ràng trước những thách thức an ninh và tranh chấp chủ quyền trong khu vực, chủ động tham gia thảo luận, tham vấn và có đóng góp tích cực vào việc giải quyết những vấn đề nổi cộm nhằm thúc đẩy tiến trình hợp tác. Kiên trì với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ, tôn trọng luật pháp quốc tế. Đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, Việt Nam bước đầu tham gia hình thành các cơ chế hợp tác, xây dựng luật lệ, chuẩn mực chung, như việc thúc đẩy triển khai Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC), xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); kiên trì thúc đẩy giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, triển khai đấu tranh ngoại giao ở nhiều cấp, dưới nhiều hình thức và tại nhiều diễn đàn đa phương, như Hội nghị cấp cao ASEAN, Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Diễn đàn cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng ASEAN mở rộng (ADMM+). Đối ngoại đa phương đã trở thành một “kênh” quan trọng để Việt Nam thể hiện tiếng nói, quan điểm của mình đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đấu tranh có hiệu quả những nhận thức sai lệch, thù địch có ý đồ dùng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” nhằm can thiệp công việc nội bộ của nước ta. Tại Đối thoại Shangri-La diễn ra tại Xin-ga-po tháng 6-2019, Việt Nam với định hướng “giải quyết tranh chấp trong không khí hòa bình, với tinh thần đối tác, vì trách nhiệm cộng đồng” đã chủ động đưa ra công thức giải quyết các vấn đề tranh chấp phù hợp với tình hình khu vực, được các nước đánh giá cao.
Thứ năm, đối ngoại đa phương góp phần quan trọng vào việc tạo vị thế, nâng tầm ảnh hưởng của đất nước trên trường quốc tế. Sự hợp tác, tham gia, đóng góp của Việt Nam đối với các tổ chức khu vực và quốc tế trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế những năm qua, Việt Nam đã có những đóng góp thiết thực, hiệu quả và đảm nhiệm thành công nhiều vai trò chủ chốt tại các tổ chức và diễn đàn đa phương cấp độ toàn cầu và khu vực, nhất là Liên hợp quốc, APEC, ASEAN; tổ chức thành công một loạt hoạt động đối ngoại đa phương quan trọng, như đăng cai Cuộc họp lần thứ 19 Ủy ban Thường trực của Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP), Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132 (tháng 4-2015); Hội nghị Cấp cao APEC (tháng 11-2017).
Không chỉ là một trong những thành viên tích cực nhất trong đề xuất các sáng kiến hợp tác, Việt Nam còn đóng vai trò nòng cốt tham gia quá trình định hình các cấu trúc mới ở khu vực và toàn cầu tại các diễn đàn đa phương. Năng lực tổ chức, điều phối, chủ trì của Việt Nam cũng là những dấu ấn quan trọng đã quy tụ được sự ủng hộ, đồng thuận và tin cậy của cộng đồng quốc tế.
Kể từ khi Việt Nam tham gia ASEAN (năm 1995), APEC (năm 1998) và nhất là tham gia WTO (năm 1997), vị thế của Việt Nam đã thay đổi theo chiều hướng tích cực, từ “ký kết, hội nhập, tham gia” đến “xây dựng, định hình các quy tắc, luật lệ mới”, từ thế “bị động” chuyển sang thế “chủ động, tích cực”; từ “tuân thủ luật chơi” đến góp phần “đề ra luật chơi”, từ “quan sát viên” đến “khởi xướng, đóng góp ý tưởng, sáng kiến”.
Những bước tiến dài và sự trưởng thành vượt bậc đó thể hiện một tâm thế, tầm nhìn mới của hoạt động đối ngoại đa phương mang đậm bản sắc Việt Nam, nâng cao vai trò, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Không phải ngẫu nhiên Việt Nam được các nước tín nhiệm bầu giữ các chức vụ và vị trí quan trọng tại các kỳ họp của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác. Liên tiếp trong thời gian qua, việc Việt Nam lần thứ hai đảm nhiệm vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2010-2021), Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) nhiệm kỳ 2019-2020 và đảm nhiệm vị trí Chủ tịch ASEAN năm 2020… là minh chứng cho thấy rõ điều này.
Để nâng tầm đối ngoại đa phương
Bối cảnh tình hình thế giới và khu vực hiện nay đặt ra những vấn đề mới, tác động cả mặt thuận và không thuận đối với đối ngoại đa phương của Việt Nam.
Một là, tiến trình toàn cầu hóa dẫn đến xu hướng hình thành mạng lưới liên kết dày đặc, đa tầng nấc với các hình thái linh hoạt giữa các nước và các khu vực. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày một gia tăng; ranh giới giữa các quốc gia - dân tộc, giữa các chủ thể trong quan hệ quốc tế, giữa các khu vực… dường như bị “mờ” đi bởi sự kết nối, tương tác đa chiều do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Trong bối cảnh đó, ngoại giao đa phương ngày càng được đề cao và coi trọng, trở thành một đặc trưng của thế kỷ XXI, ngày càng được đề cao và coi trọng. Dự báo các xu thế lớn về hợp tác đa phương đa tầng nấc với nội hàm ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, sẽ tiếp tục chi phối đời sống chính trị - kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
Trong bối cảnh đó, đối ngoại đa phương vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa là phương thức hữu hiệu của các quốc gia trên thế giới nhằm tận dụng thời kỳ phát triển mới của thế giới, tranh thủ các nguồn lực cho phục hồi kinh tế, mở rộng không gian phát triển và ứng phó với các thách thức mới. Các nước lớn, nhỏ đều đứng trước nhu cầu tăng cường hợp tác, liên kết, thông qua các cơ chế, thể chế đa phương để cùng giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới, như giải quyết xung đột, đối phó với khủng hoảng và các thách thức an ninh phi truyền thống, tạo dựng thế trận ngoại giao nhằm tối đa hóa lợi ích của mình.
Hai là, trong xu thế đa cực hóa, dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế, xuất hiện ngày càng nhiều cơ chế, thể chế, tập hợp lực lượng đa phương với nhiều dạng thức, cấp độ khác nhau đan xen phức hợp. Các nước lớn đi đầu, dẫn dắt tập hợp lực lượng kinh tế - tài chính toàn cầu và khu vực, thông qua đẩy mạnh các thiết chế, sáng kiến kinh tế chiến lược lớn. Các nước vừa và nhỏ như Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội, điều kiện lựa chọn, tham gia các thiết chế đa phương, với tư cách là những chủ thể độc lập trong mạng lưới quan hệ quốc tế, phát huy, nhằm gia tăng vai trò của mình trong thúc đẩy hình thành các luật chơi, tiến tới tham gia xây dựng trật tự chính trị - kinh tế thế giới mới.
Ba là, khu vực Đông Á - Thái Bình Dương chứng kiến những sự cạnh tranh đa chiều, phức hợp giữa các cơ chế cũ - mới đan xen; giữa cấu trúc hiện có và cấu trúc đang hình thành; các liên minh song phương tồn tại song trùng với các thể chế an ninh đa phương, đa trung tâm, đa tầng nấc. Trong bối cảnh đó, Cộng đồng ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên kết khu vực, nỗ lực giữ vai trò trung tâm tại các cơ chế đa phương, điều hòa quan hệ giữa các nước trong khu vực và các nước lớn. ASEAN tiếp tục là diễn đàn để các nước thành viên trong đó có Việt Nam bày tỏ quan điểm, tiếng nói và theo đuổi các lợi ích quốc gia của mình.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi trên có tác động tích cực đối với đối ngoại đa phương của Việt Nam là những yếu tố tác động không thuận. Đó là, trong giai đoạn chuyển đổi mang tính bước ngoặt của hệ thống đa phương, đã và đang xuất hiện những biểu hiện xung đột mới. Mặc dù xu hướng toàn cầu hóa vẫn là dòng chảy chủ đạo, tiếp tục chi phối đời sống kinh tế - chính trị thế giới nhưng có những dấu hiệu chững lại bởi những mặt trái của toàn cầu hóa, sự nổi lên của trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ và chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân hóa, chủ nghĩa thực dụng... Hiện đang diễn ra cuộc đối đầu giữa xu hướng toàn cầu hóa và phản toàn cầu hóa; giữa chủ nghĩa đa phương và chủ nghĩa đơn phương… Sự điều chỉnh chiến lược, “vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh” giữa các nước lớn cũng đặt ra những hệ lụy chưa thể lường hết đối với cục diện thế giới và khu vực. Quá trình tiến tới trật tự đa cực còn tiềm ẩn những căng thẳng, thậm chí xung đột giữa các nước lớn. Điều này đang đặt ra nhiều nguy cơ, thách thức đối với hợp tác đa phương, tạo ra nhiều rào cản đối với tự do hóa thương mại cũng như đường hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới. Trong môi trường quốc tế và khu vực có nhiều xáo động, bất lường, diễn biến nhanh, phức tạp, nhiều thách thức mới lớn nhỏ đan xen nổi lên, đòi hỏi các nước phải có cách tiếp cận đa phương, tăng cường hợp tác, liên kết để hợp sức ứng phó và giải quyết các vấn đề chung cấp bách trên toàn cầu.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để Việt Nam triển khai công tác đối ngoại trong thời kỳ mới. Đối ngoại đa phương đã được xác định là một trong những đòn bẩy sắc bén để triển khai đường lối đối ngoại của Việt Nam. Văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh: “Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là với ASEAN và Liên hợp quốc” (4). Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được phê duyệt tại Quyết định số 40/QĐ-TTg, ngày 7-1-2016, về việc phê duyệt chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, Tầm nhìn đến năm 2030 cũng xác định rõ: “Đẩy mạnh, nâng tầm đối ngoại đa phương; chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần định hình luật chơi, xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi”.
Để đáp ứng với những yêu cầu mới trong công tác đối ngoại đa phương của đất nước trong giai đoạn mới, ngày 8-8-2018 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW, về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Đây là văn bản đầu tiên của Đảng ta về công tác đối ngoại đa phương của đất nước, đưa đối ngoại đa phương thành một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là một định hướng chiến lược quan trọng hàng đầu và là một phương thức hiệu quả thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị 25 nêu các định hướng dài hạn về đối ngoại đa phương với chính sách mục tiêu: 1- Góp phần thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đối ngoại, đó là tăng cường sức mạnh, vị thế đất nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ; tranh thủ tối đa các điều kiện, nguồn lực quốc tế phục vụ phát triển bền vững, bảo đảm đời sống nhân dân, đưa đất nước thành nước công nghiệp hiện đại; 2- Triển khai hội nhập quốc tế sâu rộng, đóng góp vào nỗ lực quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thiết lập trật tự kinh tế - chính trị quốc tế công bằng, dân chủ; 3- Vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải tại các cơ chế đa phương có ý nghĩa chiến lược đối với các nước, phù hợp với khả năng và điều kiện của Việt Nam.
Để triển khai các định hướng đó, đối ngoại đa phương tiếp tục chú trọng những nội dung sau:
Một là, xuất phát từ lợi ích và khả năng của ta để xác định rõ và triển khai tốt các trọng tâm ưu tiên. Đó là phải bảo đảm hòa bình, an ninh của đất nước và khu vực, bảo đảm phát triển bền vững đất nước, trên cơ sở phát huy năng lực, khả năng, điều kiện tham gia. Cụ thể là: 1- Lựa chọn các cơ chế, diễn đàn mà Việt Nam sẽ tham gia, với các lộ trình và nội dung trọng tâm trong các giai đoạn cụ thể, phù hợp với lợi ích của đất nước. Xác định các vấn đề, lĩnh vực mà ta có thế mạnh và có khả năng tham gia, song điều quan trọng là tham gia như thế nào, với vị thế ra sao. Điều này không chỉ thể hiện Việt Nam tham gia bao nhiêu FTA, quan hệ hợp tác với bao nhiêu nước mà còn thể hiện chất lượng, hiệu quả của việc tham gia các định chế đó có tác động đến sự bứt phá, đi lên của đất nước cũng như góp phần vào sự phát triển chung của hợp tác khu vực và thế giới. 2- Xác định những đối tác trọng tâm của Việt Nam. Trong quá trình triển khai hợp tác, xác định rõ đối tác - đối tượng theo từng thời điểm, lĩnh vực cần đầu tư, ưu tiên, cả trước mắt cũng như lâu dài.
Hai là, phát huy vai trò của một thành viên có trách nhiệm tại các thể chế, diễn đàn và hội nghị đa phương. Tiếp tục kiên định lập trường đấu tranh bảo vệ và đề cao các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tham gia xây dựng các nguyên tắc ứng xử, thúc đẩy dân chủ hóa các thể chế đa phương. Khẳng định lập trường, quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quốc tế, nhất là các vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thân, “sát sườn” của ta. Tiếng nói độc lập, có trọng lượng và có tính thuyết phục tại các diễn đàn quốc tế sẽ là “sức mạnh mềm” giúp Việt Nam phát huy thế mạnh, vai trò của mình với tư cách là thành viên tích cực, trách nhiệm, sẵn sàng chia sẻ, gánh vác công việc, trọng trách chung của tổ chức, góp phần vào duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
Ba là, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan bộ, ngành trong nước với cơ quan đại diện ở nước ngoài, gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại song phương và đa phương, nhằm tham gia thực chất, hiệu quả vào hoạt động đối ngoại đa phương.
Bốn là, xây dựng và triển khai chiến lược đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách, có bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, kỹ năng đa phương,… đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đối ngoại đa phương trong thời kỳ mới. Đây là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của công tác đối ngoại đa phương.
Thời gian tới có ý nghĩa then chốt đối với tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Riêng trong năm 2020, Việt Nam đẩy mạnh tiến tới mục tiêu ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), đẩy nhanh tiến trình phê chuẩn và thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) và đặc biệt, trọng tâm của ngoại giao đa phương của Việt Nam trong năm 2020 là đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021... Đây vừa là thử thách “kép” đối với chúng ta khi cùng lúc đảm nhận hai trọng trách quan trọng, vừa là cơ hội để Việt Nam tiếp tục khẳng định năng lực, vị thế, vai trò đang lên của mình, đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới./.
----------------------
https://congthuong.vn/viet-nam-sau-10-nam-gia-nhap-wto-nhung-thanh-tuu-kha-quan-85998.html
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/fdi-va-nhung-ky-luc-moi-135417.html
http://dangcongsan.vn/thoi-su/-eu-danh-gia-cao-vai-tro-va-vi-the-cua-viet-nam-527085.html
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 155
Thi tuyển lãnh đạo - bước đột phá trong công tác cán bộ hiện nay  (30/12/2019)
- Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp và sự vận dụng của Đảng đối với vấn đề bảo đảm an ninh lương thực ở Việt Nam hiện nay
- Công an nhân dân tu dưỡng, rèn luyện, quyết tâm thực hiện lời căn dặn “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
- Chính sách đối ngoại đa phương của nước Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương
- Nâng cao chất lượng quản lý đảng viên ở ngoài nước trong giai đoạn mới: Thực trạng và giải pháp
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên