Tăng cường vai trò của nền kinh tế xanh trong bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên ở tỉnh Quảng Ninh
Kinh tế xanh là một mô hình phát triển bền vững, được Liên hợp quốc khuyến nghị nhằm cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo tồn môi trường. Mô hình này không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường mà còn giúp phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên và văn hóa thông qua việc khai thác bền vững. Bài viết này đề cập tầm quan trọng của kinh tế xanh trong việc bảo tồn các giá trị độc đáo của tỉnh Quảng Ninh và đề xuất các giải pháp phát triển phù hợp.
1. Vài nét về kinh tế xanh
1.1. Khái niệm
Thuật ngữ kinh tế xanh (greeen Economic) được sử dụng rộng rãi từ năm 2008 trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính và sự cần thiết “kích thích kinh tế xanh” với nhiều định nghĩa khác nhau. Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) tháng 10-2008 đã đưa ra “Sáng kiến kinh tế xanh”. Năm 2011, Báo cáo “Hướng tới nền kinh tế xanh: Con đường phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo” đưa ra định nghĩa về kinh tế xanh được các tổ chức quốc tế sử dụng rộng rãi, đó là “nền kinh tế xanh giúp cải thiện đời sống và công bằng xã hội, trong khi giảm đáng kể các rủi ro môi trường và khan hiếm nguồn lực sinh thái. Một nền kinh tế xanh có thể được coi là một nền kinh tế có lượng phát thải carbon thấp, sử dụng tài nguyên hiệu quả và bao trùm xã hội”. Ý nghĩa cốt lõi của kinh tế xanh là tăng trưởng kinh tế bảo đảm đồng thời hai mục tiêu là bảo vệ môi trường sống trong sạch và bền vững.
Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2012 đưa ra định nghĩa kinh tế xanh là “phát triển kinh tế đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó giảm thiểu ô nhiễm và tác động đến môi trường, tăng cường khả năng phục hồi trước biến đổi tự nhiên, đẩy mạnh vai trò của quản lý nhà nước về môi trường và nguồn lực tự nhiên trong việc ngăn ngừa các thảm họa từ thiên nhiên”(1). Tháng 9-2015, Liên hợp quốc công bố chương trình Nghị sự 2030, bao gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững nhằm xóa đói giảm nghèo, giảm thiểu bất bình đẳng và bảo vệ hành tinh.
Hiện nay, kinh tế xanh được hiểu là sự kết hợp giữa 3 yếu tố: Kinh tế - xã hội - môi trường. Kinh tế xanh có tính chất bền vững, có nghĩa đó là những hoạt động (trong nền kinh tế) tạo ra lợi nhuận hoặc giá trị có ích lợi, hướng đến phát triển cuộc sống của cộng đồng xã hội con người (đặc biệt là yếu tố văn hóa); đồng thời, những hoạt động này thân thiện với môi trường (thành tố quan trọng). 3 yếu tố này được cân bằng sẽ thỏa mãn tính bền vững.
1.2. Vai trò của kinh tế xanh
Thứ nhất, nền kinh tế xanh ghi nhận các giá trị tự nhiên và vai trò của đầu tư cho vốn tự nhiên. Vốn tự nhiên là các tài nguyên nhiên nhiên như rừng, hồ, đất, nước… có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Vốn tự nhiên mang lại lợi ích cho nông nghiệp, độ màu mỡ của đất, giá trị đối với sản xuất cây trồng… đặc biệt là nguồn sống của các hộ gia đình nghèo vì sinh kế và an sinh của họ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Vì vậy, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh không chỉ ghi nhận và minh chứng cho giá trị của vốn tự nhiên mà còn cho phép đầu tư và xây dựng vốn tự nhiên nhằm hướng tới kinh tế bền vững.
Thứ hai, kinh tế xanh góp phần xóa đói, giảm nghèo. Theo kinh nghiệm của nhiều nước đang phát triển, một trong những cơ hội lớn nhất để tăng tốc độ chuyển đổi sang kinh tế xanh là đầu tư vào việc cung cấp, dự trữ nước sạng, những dịch vụ vệ sinh cho người nghèo và năng lượng tái tạo để mang lại hiệu quả kinh tế và là phương tiện xóa đói giảm nghèo cũng như cải thiện chất lượng tổng thể cuộc sống.
Thứ ba, kinh tế xanh tạo ra việc làm và cải thiện công bằng xã hội. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh dẫn đến việc thay đổi cơ cấu việc làm và mức tăng số lượng việc làm. Để doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh hướng đến sản xuất sản phẩm xanh, sạch, bảo vệ môi trường thì cần đầu tư nguồn nhân lực cho nền kinh tế xanh.
Thứ tư, kinh tế xanh khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ carbon thấp và khuyến khích sử dụng nguồn lực, năng lượng hiệu quả hơn. Khi tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt và đa dạng sinh học suy giảm, ô nhiễm môi trường gia tăng thì việc sử dụng năng lượng tái tạo sẽ giúp giảm phát thải khí nhà kính và những rủi ro về biến động giá nhiên liệu hóa thạch.
Thứ năm, nền kinh tế xanh giảm thiểu phát thải carbon mở ra cuộc sống đô thị bền vững. Việc sử dụng nhiên liệu sạch, cải thiện hiệu quả năng lượng trong khu vực giao thông chuyển từ các phương tiện cá nhân sang phương tiện công cộng sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn về kinh tế và sức khỏe con người.
1.3. Kinh tế xanh - xu hướng tất yếu
Với trọng tâm là giảm thiểu phát thải, bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên hiệu quả, kinh tế xanh đang trở thành xu hướng phát triển chủ đạo trên toàn cầu. Theo báo cáo của UNEP, mô hình này không chỉ là một lựa chọn phát triển mà còn là yêu cầu bắt buộc để giải quyết các thách thức hiện hữu như biến đổi khí hậu, suy thoái tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường. Báo cáo cũng nhấn mạnh rằng việc chuyển đổi sang kinh tế xanh có thể giảm tới 70% lượng khí thải nhà kính toàn cầu vào năm 2050, đồng thời góp phần bảo tồn các hệ sinh thái quan trọng.
Đối với tỉnh Quảng Ninh, một địa phương sở hữu nhiều giá trị di sản thiên nhiên và văn hóa độc đáo, kinh tế xanh không chỉ giúp duy trì sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo tồn tài nguyên mà còn mở ra cơ hội định hình vị thế bền vững trong nền kinh tế quốc gia. Vịnh Hạ Long, rừng ngập mặn Đồng Rui hay khu di tích Yên Tử đều là những tài sản thiên nhiên và văn hóa không thể thay thế, đòi hỏi một mô hình khai thác bền vững để vừa phát huy giá trị vừa bảo vệ được sự trường tồn của chúng. Kinh tế xanh chính là nền tảng để đạt được mục tiêu này, thông qua việc áp dụng các chính sách và phương thức phát triển ít tác động đến môi trường.
1.4. Tầm quan trọng của kinh tế xanh trong bảo tồn di sản
Kinh tế xanh không chỉ là một xu hướng mà còn là một giải pháp cần thiết để bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên trong bối cảnh hiện nay. Báo cáo từ UNEP chỉ ra rằng, các mô hình kinh tế xanh có thể giúp giảm tới 70% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu vào năm 2050. Tại tỉnh Quảng Ninh, sự áp dụng kinh tế xanh có ý nghĩa kép: vừa bảo vệ các giá trị di sản thiên nhiên, văn hóa, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Đầu tiên, kinh tế xanh hỗ trợ khai thác bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt tại các khu vực, như Vịnh Hạ Long và rừng ngập mặn Đồng Rui. Thay vì khai thác cạn kiệt hoặc làm tổn hại môi trường, các ngành công nghiệp dựa trên kinh tế xanh, như du lịch sinh thái, nông nghiệp hữu cơ sẽ giúp giảm áp lực lên môi trường. Ví dụ, tại đảo Cô Tô, các mô hình du lịch xanh kết hợp với bảo vệ rạn san hô đã mang lại nguồn thu hơn 300 tỷ đồng trong năm 2022, đồng thời hạn chế lượng rác thải nhựa phát sinh trên các bãi biển.
Bên cạnh đó, kinh tế xanh góp phần thúc đẩy bảo tồn di sản văn hóa thông qua các dự án phát triển du lịch cộng đồng. Tại huyện Bình Liêu, nơi sinh sống của người Dao và Tày là chủ yếu, các tour du lịch văn hóa đã giúp bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa như lễ hội Soóng Cọ và nghề dệt thổ cẩm, mang lại thu nhập ổn định cho hơn 500 hộ gia đình. Những mô hình này không chỉ bảo tồn bản sắc văn hóa mà còn tạo ra cơ hội việc làm cho người dân địa phương.
1.4.1. Lợi ích kép: Bảo tồn và phát triển
Kinh tế xanh không chỉ mang lại giá trị cho môi trường mà còn tạo ra các lợi ích xã hội và kinh tế, đặc biệt trong việc bảo tồn và phát triển các khu vực di sản.
Trong bảo tồn di sản thiên nhiên: Việc áp dụng kinh tế xanh thúc đẩy khai thác bền vững các hệ sinh thái nhạy cảm, giảm thiểu nguy cơ suy thoái tài nguyên. Theo báo cáo của Sở Du lịch Quảng Ninh, tính riêng tháng 10-2024, các điểm đến trên địa bàn tỉnh đón 1,13 triệu lượt khách du lịch trong nước và quốc tế. Lũy kế 10 tháng năm 2024, du lịch tỉnh Quảng Ninh đón trên 16,7 triệu lượt khách, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó trên 3 triệu lượt khách quốc tế. Tổng doanh thu từ du lịch trên 40,1 nghìn tỷ đồng, tăng 38% cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng ngành du lịch cơ bản bảo đảm kịch bản đề ra. Một trong những điểm nhấn nổi bật là sự kiện đón 3 triệu khách quốc tế - mức kỷ lục của du lịch tỉnh Quảng Ninh kể từ năm 2020 đến nay. Đây là dấu mốc quan trọng cho những nỗ lực vượt khó để phục hồi nhanh chóng của du lịch tỉnh Quảng Ninh sau những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, cũng như cơn bão số 3 vừa qua(2).
Tuy nhiên, áp lực từ phát triển du lịch và khai thác tài nguyên đã khiến nhiều khu vực trong vịnh đối mặt với ô nhiễm nước và suy giảm hệ sinh thái biển. Kinh tế xanh, thông qua các chính sách như quản lý rác thải, giảm thiểu sử dụng năng lượng hóa thạch và bảo tồn đa dạng sinh học, có thể duy trì vẻ đẹp và giá trị sinh thái của vịnh trong dài hạn.
Phát triển bền vững: Du lịch xanh - một lĩnh vực cốt lõi của kinh tế xanh - không chỉ giúp giảm thiểu tác động tiêu cực của con người lên môi trường mà còn cải thiện chất lượng trải nghiệm của du khách. Tại đảo Cô Tô, các mô hình du lịch sinh thái như lặn ngắm san hô, khám phá rừng ngập mặn đã mang lại nguồn thu hơn 300 tỷ đồng trong năm 2022. Những hoạt động này không chỉ giảm áp lực lên các tài nguyên không tái tạo mà còn nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo tồn thiên nhiên.
Hỗ trợ cộng đồng địa phương: Kinh tế xanh mang lại lợi ích trực tiếp cho cộng đồng thông qua việc tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống. Các dự án nông nghiệp hữu cơ, chẳng hạn, không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường mà còn cung cấp nguồn thực phẩm an toàn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của du khách. Tại Bình Liêu, một huyện miền núi ở tỉnh Quảng Ninh, các tour du lịch cộng đồng không chỉ bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa như lễ hội Soóng Cọ mà còn mang lại thu nhập ổn định cho hơn 500 hộ dân. Điều này khuyến khích người dân tham gia tích cực vào việc bảo vệ di sản thiên nhiên và văn hóa, đồng thời xây dựng một mô hình kinh tế tự chủ, bền vững.
1.4.2. Kinh tế xanh - động lực mới cho sự phát triển toàn diện
Sự chuyển đổi sang kinh tế xanh không chỉ giúp Quảng Ninh bảo tồn những giá trị vốn có mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương trên thị trường quốc tế. Với các chính sách hỗ trợ và định hướng phù hợp, Quảng Ninh có thể trở thành hình mẫu trong việc áp dụng kinh tế xanh vào quản lý và khai thác di sản thiên nhiên và văn hóa. Điều này không chỉ đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của tỉnh mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, tạo nên sự hài hòa giữa phát triển và bảo tồn.
1.5. Kinh tế xanh trong bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên ở tỉnh Quảng Ninh
1.4.1. Di sản văn hóa và thiên nhiên ở Quảng Ninh
1.3.1.1. Di sản thiên nhiên
Với đường bờ biển dài 250km và hơn 2.000 hòn đảo lớn nhỏ, Quảng Ninh là một kho báu thiên nhiên độc đáo. Vịnh Hạ Long, với hệ thống núi đá vôi và hang động kỳ thú, không chỉ là điểm đến du lịch hấp dẫn mà còn có giá trị đa dạng sinh học quan trọng. Ngoài ra, tỉnh còn sở hữu các khu bảo tồn thiên nhiên, như Vườn quốc gia Bái Tử Long, rừng ngập mặn Đồng Rui và hệ sinh thái biển quanh đảo Cô Tô.
1.4.1.2. Di sản văn hóa
Tỉnh Quảng Ninh là cái nôi của nhiều giá trị văn hóa, lịch sử và tâm linh. Khu di tích Yên Tử, trung tâm Phật giáo Việt Nam, thu hút hàng triệu du khách hành hương mỗi năm. Ngoài ra, các làng nghề truyền thống, như gốm sứ, nuôi trồng thủy sản và các lễ hội văn hóa dân gian đặc sắc, như lễ hội đền Cửa Ông cũng góp phần tạo nên sự đa dạng văn hóa độc đáo của địa phương.
2. Thực trạng và một số giải pháp triển khai kinh tế xanh tại tỉnh Quảng Ninh thời gian qua
2.1. Một số thuận lợi
Tỉnh Quảng Ninh nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, là nơi hội tụ các giá trị thiên nhiên, văn hóa và kinh tế đặc biệt. Với hơn 2.000 hòn đảo lớn nhỏ và đường bờ biển dài 250km, Quảng Ninh là nơi tọa lạc của Vịnh Hạ Long, Di sản Thiên nhiên thế giới được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận. Bên cạnh đó, các giá trị văn hóa, như khu di tích Yên Tử hay các làng nghề truyền thống cũng làm nên bản sắc riêng cho địa phương.
Trong hơn một thập niên qua, tỉnh Quảng Ninh đã nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, thể hiện quyết tâm không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế. Năm 2023, Quảng Ninh có Chỉ số xanh cấp tỉnh (PGI) cao nhất cả nước với tổng điểm của cả 4 chỉ số thành phần là 26 điể (3). Điều này phản ánh sự cam kết mạnh mẽ trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được nhiều thuận lợi trong việc triển khai kinh tế xanh, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
Trước hết, tỉnh đã đầu tư mạnh mẽ vào kết cấu hạ tầng khu công nghiệp theo hướng hiện đại và thân thiện với môi trường. Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đều được trang bị hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, với 100% khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải đáp ứng quy chuẩn. Tỷ lệ cây xanh trong các khu công nghiệp và khu kinh tế cũng được bảo đảm chiếm trên 10%, tạo cảnh quan xanh, sạch, đẹp, góp phần cải thiện môi trường sống và thu hút nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, tỉnh đã khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai các dự án xanh nhằm tối ưu hóa sử dụng tài nguyên và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Tại Khu công nghiệp Texhong Hải Hà, bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải tập trung được tái chế làm nhiên liệu đốt, giảm lượng chất thải phát sinh (4). Nhiều khu công nghiệp khác cũng đang nghiên cứu và đề xuất phát triển điện mặt trời áp mái, tận dụng nguồn năng lượng sạch cho hoạt động sản xuất.
Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội xanh, bền vững, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Những chính sách này đã tạo sự chuyển biến tích cực trong cộng đồng về công tác bảo vệ môi trường, thể hiện quyết tâm “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng nóng” của tỉnh.
Nhờ những nỗ lực trên, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được những kết quả tích cực trong việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), phản ánh sự cải thiện về môi trường đầu tư, thủ tục hành chính và các yếu tố liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là minh chứng cho thấy tỉnh đang đi đúng hướng trong việc triển khai kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
2.2. Thách thức trong triển khai kinh tế xanh tại Quảng Ninh
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế và công nghiệp nhanh chóng đã gây áp lực lớn lên môi trường và các di sản. Theo một báo cáo từ Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh(5), tình trạng ô nhiễm không khí và nước ở các khu vực khai thác than đã tăng đáng kể, ảnh hưởng trực tiếp đến các hệ sinh thái nhạy cảm như rừng ngập mặn và các khu vực biển ven bờ.
Nhận thức và năng lực quản lý còn hạn chế: Một số doanh nghiệp và cơ quan quản lý chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của kinh tế xanh, dẫn đến việc triển khai các chính sách và dự án liên quan chưa hiệu quả. Việc thiếu kinh nghiệm và kiến thức về kinh tế xanh cũng gây khó khăn trong việc áp dụng các mô hình phát triển bền vững.
Phụ thuộc vào ngành công nghiệp khai thác than: Quảng Ninh là trung tâm khai thác than lớn nhất Việt Nam, với ngành than đóng góp đáng kể vào ngân sách và tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Tuy nhiên, hoạt động khai thác than gây ra nhiều hệ lụy về môi trường, như ô nhiễm không khí, nước và suy thoái đất. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế dựa vào khai thác than sang kinh tế xanh gặp nhiều khó khăn do sự phụ thuộc này.
Ô nhiễm môi trường từ hoạt động công nghiệp: Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh, như khu công nghiệp Texhong Hải Hà và khu công nghiệp Sông Khoai, đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân và hệ sinh thái địa phương. Mặc dù đã có những nỗ lực trong việc áp dụng các dự án xanh, như sử dụng bùn thải không nguy hại làm nhiên liệu đốt và phát triển điện mặt trời áp mái, nhưng việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn.
Thiếu nguồn lực tài chính và công nghệ: Việc ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi xanh đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và địa phương gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tài chính xanh để đầu tư vào công nghệ, dẫn đến việc triển khai kinh tế xanh bị hạn chế.
Áp lực từ tăng trưởng kinh tế nhanh: Tỉnh Quảng Ninh đặt mục tiêu trở thành một trong những trung tâm phát triển năng động và toàn diện của cả nước vào năm 2030, với tốc độ tăng trưởng GRDP hằng năm trên 10%. Áp lực này có thể dẫn đến việc ưu tiên tăng trưởng kinh tế hơn là bảo vệ môi trường, gây khó khăn cho việc triển khai kinh tế xanh.
Mặc dù Quảng Ninh đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc chuyển đổi sang kinh tế xanh, nhưng vẫn còn nhiều thách thức cần vượt qua. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, tỉnh cần tiếp tục nỗ lực trong việc giảm sự phụ thuộc vào ngành công nghiệp khai thác than, tăng cường đầu tư vào công nghệ và nguồn lực tài chính cho các dự án xanh, nâng cao nhận thức và năng lực quản lý, cũng như cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường.
2.3. Các giải pháp tăng cường vai trò của kinh tế xanh trong bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên tại tỉnh Quảng Ninh
Trên cơ sở một số khó khăn, thách thức trong triển khai kinh tế xanh tại tỉnh Quảng Ninh, việc tăng cường vai trò của kinh tế xanh trong bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên ở tỉnh Quảng Ninh đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng. Dưới đây là một số giải pháp mà tỉnh Quảng Ninh có thể tham khảo:
Một là, nâng cao nhận thức và giáo dục cộng đồng. Chính quyền và các tổ chức xã hội cần tổ chức các chương trình giáo dục tại trường học và cộng đồng, nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của bảo tồn di sản và phát triển bền vững. Người dân địa phương cần được khuyến khích tham gia các dự án bảo tồn và phát triển kinh tế xanh. Các hình thức hợp tác như mô hình du lịch cộng đồng, sản xuất nông nghiệp hữu cơ hoặc bảo tồn rạn san hô sẽ giúp tạo sinh kế bền vững và giảm áp lực lên môi trường. Xây dựng các chiến dịch truyền thông mạnh mẽ để thúc đẩy ý thức bảo vệ môi trường, kêu gọi sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp vào các hoạt động xanh. Các kênh truyền thông có thể tập trung vào các thành công tiêu biểu, chẳng hạn như du lịch sinh thái tại đảo Cô Tô hoặc mô hình nông nghiệp hữu cơ tại Hạ Long.
Hai là, đổi mới chính sách và quản lý: Tỉnh Quảng Ninh cần xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế xanh, tập trung vào các lĩnh vực, như du lịch sinh thái, nông nghiệp hữu cơ và năng lượng tái tạo. Cụ thể: 1- Ưu đãi tài chính: Giảm thuế, miễn phí đất thuê cho các doanh nghiệp tham gia các dự án du lịch sinh thái hoặc ứng dụng công nghệ xanh trong sản xuất; 2- Hỗ trợ kỹ thuật: Tạo điều kiện tiếp cận các chương trình tư vấn và chuyển giao công nghệ xanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần thiết lập hệ thống giám sát môi trường chặt chẽ tại các khu vực nhạy cảm, như Vịnh Hạ Long, rừng ngập mặn Đồng Rui và các khu công nghiệp. Việc áp dụng công nghệ số (IoT, big data) để theo dõi chất lượng nước, không khí và xử lý chất thải sẽ giúp giảm thiểu tác động tiêu cực từ các hoạt động kinh tế truyền thống. Ngoài ra, việc quy hoạch các khu vực bảo tồn, phát triển du lịch và khu công nghiệp cần bảo đảm không chồng chéo. Chính quyền địa phương nên ưu tiên các khu vực có giá trị sinh thái cao để bảo vệ trước áp lực từ khai thác và đô thị hóa.
Ba là, thúc đẩy đầu tư vào công nghệ xanh: Việc giảm phụ thuộc vào khai thác than và chuyển sang năng lượng tái tạo là bước đi tất yếu. Một mặt, tỉnh Quảng Ninh cần thu hút đầu tư vào các dự án như điện mặt trời, điện gió và năng lượng từ sinh khối. Chẳng hạn, các đảo du lịch, như Cô Tô hoặc Quan Lạn có thể phát triển mô hình điện mặt trời phục vụ nhu cầu năng lượng tại chỗ, giảm phụ thuộc vào điện từ đất liền. Mặt khác, các doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác và chế biến cần đầu tư vào công nghệ xử lý chất thải và tái chế. Ví dụ, ngành than có thể triển khai công nghệ tái sử dụng nước thải mỏ hoặc thu hồi khí mêtan từ mỏ than để sản xuất năng lượng.
Bốn là, phát triển du lịch xanh gắn với bảo tồn di sản: Tỉnh Quảng Ninh có thể phát triển các tour du lịch sinh thái tại các khu vực, như Vườn quốc gia Bái Tử Long, rừng ngập mặn Đồng Rui và các làng chài ven biển. Các tour này cần kết hợp giữa khám phá thiên nhiên và giáo dục bảo tồn, đồng thời hạn chế số lượng du khách để giảm áp lực lên môi trường. Tại các huyện miền núi như Bình Liêu, Ba Chẽ, cần hỗ trợ người dân địa phương phát triển các sản phẩm du lịch cộng đồng dựa trên văn hóa bản địa. Chính quyền có thể hỗ trợ người dân xây dựng homestay, phát triển các làng nghề truyền thống và tổ chức các lễ hội văn hóa nhằm thu hút du khách. Thêm vào đó, cần xây dựng các nền tảng số để quảng bá và quản lý du lịch. Ví dụ, du khách có thể sử dụng ứng dụng để đặt vé tham quan, kiểm tra thông tin về chất lượng không khí hoặc nước tại các điểm đến như Vịnh Hạ Long. Điều này không chỉ giúp nâng cao trải nghiệm mà còn giảm thiểu tác động lên môi trường.
Năm là, hợp tác công -tư và quốc tế: Tỉnh Quảng Ninh cần kêu gọi sự tham gia của các tổ chức quốc tế, như Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) hoặc Ngân hàng Thế giới (World Bank) trong các dự án bảo tồn và phát triển xanh. Hợp tác quốc tế có thể giúp địa phương tiếp cận các nguồn tài chính và công nghệ tiên tiến. Chính quyền cần làm cầu nối để khuyến khích sự hợp tác giữa doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong các dự án xanh. Ví dụ, các doanh nghiệp du lịch có thể hợp tác với các tổ chức môi trường để bảo vệ rạn san hô hoặc giảm thiểu rác thải tại Vịnh Hạ Long.
Những giải pháp trên, nếu được thực hiện đồng bộ và hiệu quả, sẽ không chỉ giúp Quảng Ninh bảo tồn các giá trị văn hóa và thiên nhiên đặc sắc mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Kinh tế xanh không chỉ là một mô hình lý tưởng mà còn là yêu cầu tất yếu để tỉnh Quảng Ninh trở thành một hình mẫu phát triển xanh trong khu vực, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.
------------------------
(1) Xem: Nguyễn Tuấn Phong: Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025, Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam, số 4-2021
(2) Bảo Anh: Quảng Ninh kỳ vọng hoàn thành mục tiêu đón 19 triệu lượt khách, ngày 13-11-2024, https://dangcongsan.vn/quang-ninh-co-hoi-dau-tu-va-phat-trien-ben-vung/quang-ninh-vung-buoc-tuong-lai/quang-ninh-ky-vong-hoan-thanh-muc-tieu-don-19-trieu-luot-khach-683126.html
(3) Ngọc Khôi: Quảng Ninh quyết tâm nâng điểm Chỉ số Xanh cấp tỉnh, 21-6-2024, https://baoquangninh.vn/quang-ninh-quyet-tam-tang-tong-diem-chi-so-xanh-cap-tinh-3304974.html
(4) Xem: Nguyễn Thanh: Quảng Ninh: Thu hút đầu tư thông minh, hướng tới phát triển kinh tế xanh, ngày 18-11-2024, https://congthuong.vn/quang-ninh-thu-hut-dau-tu-thong-minh-huong-toi-phat-trien-kinh-te-xanh-359459.html
(5) Xem: Công bố kết quả quan trắc môi trường tỉnh Quảng Ninh năm 2022, ngày 30-12-2022, Cổng Thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh, https://www.quangninh.gov.vn/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=118353Tác động của quá trình phát triển kinh tế di sản đến cư dân ven biển tỉnh Quảng Ninh thời gian qua  (06/12/2024)
Tăng cường vai trò của báo chí trong truyền thông chính sách phát triển kinh tế di sản ở tỉnh Quảng Ninh  (06/12/2024)
Di sản Phật giáo với những đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế di sản của tỉnh Quảng Ninh  (06/12/2024)
Khai thác sức mạnh của trí tuệ nhân tạo (AI) trong phát huy giá trị của các di sản văn hóa tỉnh Quảng Ninh  (05/12/2024)
Nhận thức về kinh tế di sản và thực trạng ở Việt Nam  (05/12/2024)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay