Một thế kỷ du lịch vịnh Hạ Long
Theo các tài liệu lịch sử, từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, vẻ đẹp của vịnh Hạ Long đã được một cựu sĩ quan Pháp là Lapique khai phá làm du lịch. Sau khi nhận thấy vẻ đẹp có một không hai của vịnh Hạ Long, nhân thấy tiềm năng du lịch của vùng đất, vùng biển này, Lapique đã in những tờ quảng cáo gọi vịnh Hạ Long là “Kỳ quan thứ tám” của thế giới. Được cho phép khai thác du lịch, Lapique đã trở thành người đầu tiên đặt nền móng cho ngành du lịch vịnh Hà Long với việc mở đường, xây bến tắm, sắm 4 tàu thăm vịnh.
Từ thửa sơ khai ấy, các tàu đều mang tên các loại ngọc, có từ 6 đến 12 phòng riêng biệt và 1 buồng tối để khách in, rửa ảnh…, đến nay, sau gần 1 thế kỷ, đã có những con tàu quốc tế có sức chứa hàng ngàn khách cập bến thăm quan vịnh Hạ Long, các cảnh đẹp của vịnh Hạ Long đã được hàng ngàn du khách ghi lại và chuyển ra thế giới chỉ trong khoảnh khắc với sự ứng dụng công nghệ hiện đại trên nền tảng mạng internet toàn cầu.
Nhìn lại hành trình một thế kỷ, có thể thấy những giai đoạn phát triển, gắn với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nói chung và quá trình phát triển của Quảng Ninh nói riêng.
Thời kỳ trước và sau khi thống nhất đất nước, du lịch của Quảng Ninh chỉ ở dạng sơ khai, phục vụ đối ngoại là chủ yếu. Khách du lịch nội địa chủ yếu là khách công vụ, đoàn viên công đoàn được tiêu chuẩn đi nghỉ dưỡng. Kết cấu hạ tầng du lịch dịch vụ chỉ tập trung ở khu vực Bãi Cháy với số ít khách sạn, nhà hàng thuộc các doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm, ăn uống, thông tin liên lạc, y tế... còn thiếu và nghèo nàn.
Quảng Ninh cùng với sự phát triển của tỉnh trong những năm qua đã ngày càng phát triển mạnh mẽ, mở rộng ra các vùng miền, với nhiều loại hình, sản phẩm khác nhau, đáp ứng nhu cầu thị trường, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và vươn tầm khu vực, thế giới…
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ I (1969 - 1971) khẳng định: Tỉnh có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, đối ngoại quốc phòng, an ninh. Chúng ta phải thấy hết ý nghĩa quan trọng của vấn đề bảo vệ kinh tế, bảo vệ bờ biển và giữ gìn an ninh biên giới, hải đảo. Trên cơ sở đó, tỉnh đề ra nhiệm vụ “quyết tâm xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh có trung tâm công nghiệp quan trọng của cả nước, có công nghiệp Trung ương lớn mạnh và hiện đại, có kinh tế địa phương phát triển phong phú và toàn diện, có nền văn hóa, khoa học và kỹ thuật phát triển. Tăng cường lãnh đạo phát triển sản xuất công nghiệp than để đảm bảo yêu cầu về sản lượng ngày càng lớn; phát triển mạnh công nghiệp địa phương và nông nghiệp đảm bảo nhu cầu ngày càng tăng nhanh về mọi mặt sản xuất, đời sống, du lịch và quốc phòng”,…
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ V vòng II (1977 - 1980) quyết định phương hướng nhiệm vụ của địa phương trong hai năm 1977 - 1978: “Từng bước đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đưa nền sản xuất đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, vật liệu xây dựng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trên cơ sở sử dụng tốt nhất sức lao động, đất đai, tài nguyên của địa phương; đồng thời ra sức phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, cải thiện một bước đời sống của nhân dân; không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội”. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế địa phương trong kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) là: “tạo ra một bước phát triển vượt bậc trong nông nghiệp cả về lương thực và thực phẩm; đồng thời phát triển lâm nghiệp, ngư nghiệp với tốc độ nhanh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương (kể cả tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp) theo hướng phát triển thật nhanh vật liệu xây dựng sành, sứ và các mặt hàng tiêu dùng khác nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách về đời sống của nhân dân, tăng nhanh hàng xuất khẩu, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu 10 triệu tấn than sạch, 5 tỷ KW giờ điện của cả nước”.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ VI (1980 - 1982) đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho 2 năm 1980 - 1981 là: “ra sức đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm và ổn định đời sống; tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, chuẩn bị chu đáo mọi mặt cho sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc; kiên quyết đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và trong xã hội, …, thực hiện tốt nhất hai nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc biên giới, vùng trời, vùng biển của tỉnh, xây dựng tỉnh Quảng Ninh thành một đơn vị chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng. Từng bước cùng các ngành kinh tế ở Trung ương xây dựng một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp thích hợp với điều kiện tỉnh nhà để đẩy mạnh sản xuất, tăng nhanh hàng xuất khẩu, thực hiện hậu cần tại chỗ ngày càng nhiều cho quốc phòng, cho ngành than và các ngành kinh tế Trung ương phát triển,...”
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ VII vòng I (1982 - 1983) nhất trí cao với 4 mục tiêu và 10 nhiệm vụ và kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 của chặng đường trước mắt phải tiến hành công nghiệp hóa chủ yếu là đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và xây dựng công nghiệp nặng.
Như vậy, nhiệm vụ hàng đầu được xác định trong giai đoạn này là đề góp phần tích cực xây dựng hậu phương và chi viện cho tiền tuyến nhằm “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”, và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp, trong đó tập trung chủ yếu vào ngành than được chú trọng.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ VIII, nhiệm kỳ 1986 - 1991 đề ra mục tiêu 5 năm 1986 - 1990: phấn đấu tiến tới ổn định cơ bản tình hình kinh tế - xã hội, trước hết là ổn định và phát triển sản xuất than, góp phần ổn định thị trường giá cả, tài chính, tiền tệ… Phương hướng chung của kế hoạch 1986 - 1990: Tập trung sức đẩy mạnh sản xuất than, ngành kinh tế chủ đạo của tỉnh; phát triển nông nghiệp toàn diện, coi nông nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu của kinh tế địa phương; đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ X, nhiệm kỳ 1996 - 2001, đã rút ra bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của nhiệm kỳ khóa IX: Phải nắm vững các quan điểm, đường lối, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Chính phủ; Luôn luôn nêu cao ý chí tự lực, tự cường… Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: “Phát huy những thành tích đạt được, tiếp tục khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của địa phương, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tranh thủ thời cơ, mở rộng quan hệ hợp tác trong và ngoài nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và du lịch, phát triển và tăng cường nguồn lực kinh tế, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội”. Một trong các mục tiêu cụ thể đến năm 2000 là “Đưa tỷ trọng công nghiệp và du lịch, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế lên từ 85 đến 90%”. Đại hội cũng khẳng định mục tiêu chiến lược lâu dài theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh ta là: “Phấn đấu đưa Quảng Ninh trở thành một tỉnh công nghiệp và du lịch hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đời sống nhân dân ngày một nâng cao”. Đề ra nhiệm vụ phát triển toàn diện các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, nhưng lấy ngành công nghiệp và du lịch làm trọng tâm. Để thực hiện được phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu trên, Đại hội đã đề ra những giải pháp chủ yếu: Tận dụng khai thác các lợi thế về đất đai, tài nguyên, khoáng sản và điều kiện địa lý thuận lợi, huy động các nguồn vốn để tăng tỷ trọng cho đầu tư phát triển, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng”.
Ngay sau khi Sở Du lịch Quảng Ninh được thành lập năm 1993, thì cuối năm 1994, vịnh Hạ Long chính thức được UNESCO ghi danh là Di sản Thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng toàn cầu về mặt thẩm mỹ. Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được ban hành thì, năm 2000, di sản này tiếp tục được ghi danh Di sản thế giới về giá trị địa chất, địa mạo. Từ đó, du lịch Quảng Ninh với sức hút vịnh Hạ Long bước sang trang mới, khởi động thúc đẩy quá trình phát triển văn hóa, du lịch, đặt cơ sở nền tảng phát triển cho giai đoạn sau này, bắt đầu giai đoạn phát triển với những đột phá mạnh mẽ, trở thành một trong những thế mạnh của tỉnh, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trở thành định hướng dẫn dắt quá trình phát triển của cả tỉnh, mà gân đây nhất là chủ trương phát triển được định hướng chuyển đổi từ NÂU sang XANH.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2001 - 2005 định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010: Mười năm tới, Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh phải tập trung cao mọi nỗ lực để khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế, xây dựng Quảng Ninh phát triển với tốc độ ổn định và bền vững cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh và môi trường sinh thái.
Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là: đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giữ vững sự tăng trưởng cao về kinh tế; tăng cường cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế và sức cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế của tỉnh nhiệm kỳ 2001 - 2005 được xác định là: Công nghiệp, du lịch - dịch vụ và nông nghiệp.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã đề ra mục tiêu tổng quát như sau: Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ và đồng bộ, động viên mọi nguồn lực để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; phấn đấu phát triển kinh tế với tốc độ cao, ổn định, bền vững, gắn kết với các lĩnh vực văn hóa - xã hội; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; phấn đấu xây dựng Quảng Ninh thực sự trở thành một địa bàn động lực, phát triển năng động trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2015. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu tổng quát trên, Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu cụ thể, trong đó phấn đấu các ngành dịch vụ tăng 15 - 16%/năm. Năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 1.230 - 1.450 USD; cơ cấu các ngành dịch vụ 42%. Chỉ tiêu về môi trường (đến năm 2010) cũng phấn đấu nâng tỷ lệ độ che phủ rừng lên 50%; tỷ lệ hộ nông dân được dùng nước sạch 75 - 80%; Đô thị có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn bảo vệ môi trường 60%.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 thống nhất về phương hướng: Phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, đặc biệt là lợi thế về vị trí địa lý, kinh tế, chính trị, tài nguyên thiên nhiên, nhất là khoáng sản và tiềm năng du lịch, để Quảng Ninh cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2015. Đến năm 2015, nâng cơ cấu dịch vụ lên 43% (công nghiệp và xây dựng 53%, nông - lâm - ngư nghiệp 4%). Đại hội xác định nhiệm vụ và giải pháp tạo bước phát triển đột phá là tập trung xây dựng về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội một cách hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm và xây dựng các thiết chế văn hoá xã hội. Đây cũng là nhiệm kỳ Quảng Ninh đấy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI năm 2014 của Ban Chấp hành Trung ương, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đặt mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2015-2020: Phấn đấu đến năm 2020, xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ, công nghiệp; là trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực, một trong những cực tăng trưởng kinh tế của miền Bắc với hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo vệ và cải thiện rõ rệt môi trường sinh thái; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá; bảo tồn và phát huy bền vững các giá trị của Di sản - Kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và các khu danh thắng, di tích lịch sử.
Nhiệm kỳ khóa XIV, cũng xác định tạo bước phát triển đột phá trên cơ sở một số định hướng lớn, trong đó có tăng trưởng kinh tế đảm bảo chỉ tiêu đề ra trên nền tảng phát triển bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, quốc phòng - an ninh vững chắc. Nâng cao chất lượng và tỷ trọng các ngành dịch vụ, nhất là du lịch; phát triển công nghiệp bền vững gắn với bảo vệ môi trường…
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đánh giá: Qua mười năm thực thi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nhất là tiếp tục kế thừa, phát triển tư duy, tầm nhìn, lộ trình, phương thức phát triển của nhiệm kỳ thứ XIII (2010 - 2015), suốt 5 năm của nhiệm kỳ XIV (2015 - 2020), tỉnh Quảng Ninh không ngừng phát huy tiềm năng, thế mạnh để phát triển nhanh, bền vững, nội lực của Tỉnh được củng cố, tăng cường, trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của phía Bắc. Đại hội cũng đề mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu chủ yếu; các định hướng, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp thực hiện trong nhiệm kỳ 2020 – 2025: “… xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện của phía Bắc”; “lấy phát triển con người,…lấy phát triển văn hóa, xây dựng văn minh sinh thái, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường làm trọng điểm; “chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột (thiên nhiên, con người, văn hóa), kết hợp với xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập và cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; …phát triển công nghiệp dịch vụ, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp sáng tạo được tổ chức sản xuất ở trình độ cao…”; “kiên trì thực hiện tổ chức không gian phát triển “một tâm, hai tuyến đa chiều và hai mũi đột phá” nhằm bảo đảm mục tiêu liên kết, đồng bộ để phát huy thế mạnh của từng địa phương trong tỉnh cũng như thế mạnh của Tỉnh trong Vùng đồng bằng sông Hồng và Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ… phát triển chuỗi đô thị - công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao và du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh”. Trong tầm nhìn định hướng phát triển đến năm 2030, năm 2045: “xây dựng, phát triển Quảng Ninh là tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại; là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện, trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước, đô thị phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh…”. Đến năm 2045, Quảng Ninh là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, vùng đô thị lớn mang tầm khu vực và quốc tế một trong những đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia với động lực tăng trưởng chính là dịch vụ, du lịch…”.
Một trong các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá, các đề án, chương trình trọng điểm trong nhiệm kỳ 2020 – 2025 là: “Đẩy nhanh tốc độ phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại…; du lịch trở hành ngành kinh tế mũi nhọn; “kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người, xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh; giữa đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa gắn với… bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa”. Đây là những căn cứ chính tị quan tọng để Quảng Ninh thực hiện chiến lược phát triển xanh. Trải qua thời gian, du lịch vịnh Hạ Long vẫn giữ nguyên sức hút với bạn bè, du khách năm châu, luôn là một trọng điểm du lịch của tỉnh, góp phần đưa Hạ Long trở thành trung tâm du lịch lớn nhất Quảng Ninh, góp phần đưa Việt Nam thành một điểm đến trên bản đồ du lịch thế giới.
Điểm lại các kỳ đại hội, thấy Quảng Ninh đã có những quyết sách lớn để biến tiềm năng thành hiện thực, từng bước khai thác các thế mạnh, nguồn tài nguyên du lịch với những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử, văn hoá nổi tiếng… cho phát triển.
Từ năm 2001, tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-TU, ngày 30-11-2001, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về đổi mới và phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2001-2010, nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng to lớn về du lịch, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Đây là "kim chỉ nam hành động” cho du lịch Quảng Ninh phát triển giai đoạn sau này.
Cùng với việc ban hành Nghị quyết số 08/NQ-TU, tỉnh đã xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh thời kỳ 2001 - 2010. Từ đây, tập trung công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động du lịch, huy động mọi nguồn lực xã hội để tập trung phát triển, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình thu hút đầu tư, giải quyết các vấn đề về môi trường du lịch, an ninh trật tự, an toàn cho du khách, phát triển thương hiệu, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp...
Sau một thời gian ngắn khoảng hơn chục năm gần đây, du lịch Quảng Ninh đã có bước phát triển vượt bậc. Số lượng cơ sở lưu trú tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Thu hút đầu tư nước ngoài vào du lịch tăng mạnh. Tỉnh đã tập trung huy động các nguồn lực để thu hút và xây dựng công trình có tính động lực thúc đẩy cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung, trong đó có du lịch, như: Đưa đường điện lưới quốc gia ra huyện đảo Cô Tô (năm 2013), đảo Cái Chiên (Hải Hà) (năm 2016), Công trình Bảo tàng - Thư viện tỉnh (năm 2013), Cụm thông tin cổ động biên giới Sa Vỹ (năm 2013), dự án hạ tầng khác tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn, như: Khu di tích Yên Tử (Uông Bí), Khu di tích Nhà Trần (Đông Triều), đảo Cô Tô và một số dự án lớn, trọng điểm của Tập đoàn Sun Group, Vin Group, BIM Group, Tuần Châu đã phát huy hiệu quả.
Lượng khách đến với Quảng Ninh giai đoạn này tăng mạnh. Theo thống kê từ 2015 đến 2019 (trước khi diễn ra đại dịch Covid-19), tổng lượng khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 52,239 triệu lượt khách; trong đó khách quốc tế đạt 21,521 triệu lượt. Tổng thu từ lĩnh vực du lịch đạt 95.203 tỷ đồng; nộp ngân sách từ hoạt động du lịch đạt 10.205 tỷ đồng. Giai đoạn này, tổng lượng khách du lịch tăng 1,67 lần, khách quốc tế tăng 1,64 lần, tổng thu từ du lịch tăng 2,21 lần, thu ngân sách từ du lịch tăng 2,28 lần, tỷ trọng trong thu ngân sách nội địa của du lịch tăng 4,2%. Các khu du lịch, nghỉ dưỡng cao cấp cũng được đầu tư xây dựng. Khu nghỉ dưỡng suối khoáng nóng Yoko Onsen Quang Hanh, hệ thống khách sạn 5 sao, du thuyền cao cấp trên Vịnh Hạ Long, Công viên Hạ Long SunWorld, Quần thể nghỉ dưỡng FLC Hạ Long, Khu du lịch quốc tế Tuần Châu,…
Đồng thời, hàng loạt các hạ tầng du lịch trọng yếu được đầu tư chủ yếu từ nguồn vốn doanh nghiệp, đi vào khai thác, như: Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, Cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu, Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long, Trung tâm Văn hoá Trúc Lâm Yên Tử, Cảng tàu quốc tế Ao Tiên - Vân Đồn... đã góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch Quảng Ninh. Không gian du lịch được mở rộng đến 13 địa phương trong tỉnh, tiếp tục khẳng định Quảng Ninh là một điểm đến hàng đầu Việt Nam và khu vực. Sản phẩm du lịch cũng ngày càng phong phú, đa dạng. Các show biểu diễn âm nhạc trên du thuyền là sản phẩm du lịch mới hấp dẫn du khách khi đến với Hạ Long.
Du lịch Quảng Ninh hiện nay đã và đang nỗ lực phục hồi, phát triển bền vững sau ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19. Đặc biệt đáng ghi nhận là sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực, làm mới các sản phẩm du lịch cũ và phát triển thêm các sản phẩm mới hấp dẫn khách du lịch. Năm 2023, Quảng Ninh đặt mục tiêu đón 15 triệu lượt khách du lịch, cao hơn 3,4 triệu lượt so với năm 2022, doanh thu đạt 32.400 tỷ đồng. Quảng Ninh tập trung phát triển 4 dòng sản phẩm du lịch chủ lực gồm: du lịch biển đảo, du lịch tâm linh, du lịch thương mại biên giới, du lịch sinh thái cộng đồng với nhiều sản phẩm du lịch mới. Với hệ thống hạ tầng giao thông động lực về cảng hàng không, cảng tàu khách quốc tế, đường cao tốc...được đầu tư đồng bộ cho phát triển kinh tế, xã hội nói chung và du lịch nói riêng, Quảng Ninh hướng đến phát triển ngành công nghiệp văn hóa - giải trí; trở thành trung tâm du lịch quốc tế và trọng điểm du lịch hàng đầu quốc gia với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch đa dạng đặc sắc, chất lượng cao…
Thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIV đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 9-3-2018, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững” với mục tiêu: Gìn giữ và phát huy bền vững bản sắc văn hóa; các giá trị di sản thiên nhiên, văn hóa, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; xây dựng con người Quảng Ninh với các đặc trưng “Năng động - sáng tạo - hào sảng - lành mạnh - văn minh - thân thiện”. Trong bối cảnh phát triển mới, Quảng Ninh đã nhanh chóng định hình nét đặc trưng riêng. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, tỉnh đã huy động hiệu quả nhiều nguồn lực để tập trung xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa từ tỉnh đến cơ sở, cơ bản đáp ứng được nhiệm vụ. Cụm công trình văn hóa Bảo tàng Quảng Ninh, Thư viện Quảng Ninh, Cung Quy hoạch Quảng Ninh, Hội chợ và Triển lãm, Trung tâm Thể thao tỉnh, Trung tâm Văn hóa - Thể thao vùng Đông Bắc… Nhiều trong số đó đã thể hiện được nét đặc sắc kiến trúc riêng, trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách của Quảng Ninh.
Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa được quan tâm chú trọng. Các di sản như: Vịnh Hạ Long, Yên Tử, các di sản nhà Trần tại Đông Triều, đền Cửa Ông và nhiều di tích danh thắng khác... trong vòng 5 năm trở lại đây được đầu tư tu bổ, tôn tạo với nguồn kinh phí gần 3.000 tỷ đồng (chủ yếu từ nguồn vốn huy động xã hội hóa). Đi cùng với đó là sự tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, do đó hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm, các giá trị văn hóa gắn liền với các cơ sở thờ tự, tín ngưỡng được tôn vinh, lan tỏa… Quảng Ninh có 5 Di tích Quốc gia đặc biệt, ngoại trừ Vịnh Hạ Long thì 4 di tích còn lại đã được công nhận trong vòng 10 năm gần đây. Hiện, tỉnh cũng đang tiếp tục xúc tiến việc lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử là Di sản thế giới; lập hồ sơ khoa học trình Chính phủ xếp hạng di tích Thương cảng Vân Đồn là Di tích Quốc gia đặc biệt...
Những năm gần đây, cùng với các hoạt động văn hóa, thể thao duy trì thường niên thì Quảng Ninh cũng tổ chức nhiều sự kiện mới lạ, như: Carnaval Hạ Long - Quảng Ninh, Lễ hội hoa Anh đào - Mai vàng Yên Tử, Liên hoan Xiếc thế giới, Festival âm nhạc, Tiếng hát Asean+3, Gala Xiếc ba miền, Ngày hội Yoga quốc tế, Giải chạy marathon quốc tế Hạ long, Giải bóng chuyền bãi biển quốc tế Tuần Châu... Qua đó, đã tạo nên những sản phẩm văn hóa, thể thao đặc sắc, riêng có để quảng bá văn hóa, con người, hình ảnh Quảng Ninh đến với bạn bè quốc tế. Các Chương trình “Nụ cười Hạ Long”, Bộ quy tắc ứng xử trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Đề án bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh, Đề án bảo tồn, phát huy các môn thể thao dân tộc và trò chơi dân gian, giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến 2030, Đề án Phát triển tài năng Thể thao thành tích cao tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030... đã góp phần định hướng tư tưởng, thẩm mỹ, đời sống văn hóa của nhân dân trên địa bàn, tạo cơ sở cho ngành du lịch phát triển, nhất là du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm,…
Đặc biệt, với việc đưa Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long do tập đoàn Sun Group đầu tư với vốn đầu tư hơn 1.100 tỉ đồng đi vào hoạt động từ ngày 27-11-2018, đã tạo thêm một cú hích lớn cho du lịch tàu biển. Đây là cảng tàu khách chuyên biệt đầu tiên, có thể phục vụ cùng lúc 2 tàu, mức tối đa trọng tải tàu lớn nhất là 225.000 GRT với tổng số 8.460 người. Những năm qua, Quảng Ninh đã đón nhiều lượt tàu du lịch tầm cỡ quốc tế, như tàu Viking Orion (quốc tịch Na Uy) và Silver Muse (quốc tịch Bahamas) đã đưa gần 1.200 du khách châu Âu đến Hạ Long cuối tháng 10-2023. Theo thông tin từ Sở Du lịch Quảng Ninh, tính đến thời điểm hiện tại đã có 18 chuyến tàu biển quốc tế đăng ký đưa khách vào Vịnh Hạ Long, bắt đầu từ cuối tháng 10 đến hết năm 2023. Đây đều là những tàu biển hạng sang, đã đến Hạ Long từ nhiều năm qua như tàu Viking Orion, Silver Muse, Celebrity Solstice, Silver Whisper… Loại tàu biển này được thiết kế sang trọng, hiện đại, chuyên phục vụ các hải trình du lịch châu Á và Nam Thái Bình Dương, có thể xuất phát từ nhiều quốc gia khác nhau. Du lịch tàu biển là loại hình du lịch mang tính chuyên biệt cao, nhu cầu và xu hướng của đối tượng khách du lịch tàu biển là nền tảng cho việc đa dạng và phát triển những sản phẩm du lịch mới có chất lượng cao. Đặc biệt, hình ảnh và hoạt động của du lịch tàu biển góp phần tạo ra động lực và cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài chọn Quảng Ninh để triển khai các dự án phát triển dịch vụ. Đây cũng là nguồn khách góp phần thay đổi khái niệm du lịch mang tính mùa vụ của Quảng Ninh.
Quảng Ninh sở hữu hệ thống cảng đồng bộ, nhiều danh lam, thắng cảnh đẹp nổi tiếng; nằm trên tuyến giao thông hàng hải quan trọng của châu Á, phù hợp với lộ trình kết nối các tuyến du lịch tàu biển trong khu vực và thế giới. Đặc biệt gần với Trung Quốc, thị trường tiềm năng của mảng du lịch tàu biển, nơi mà rất nhiều hãng tàu quốc tế đưa tàu du lịch đến để khai thác. Hạ Long cũng là điểm gần nhất để đến những thị trường Bắc Á khác như: Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Nhật Bản... Do đó, Quảng Ninh đã chủ trương hình thành những chuỗi du lịch khép kín đáp ứng tốt nhu cầu vui chơi, mua sắm, giải trí của du khách đi tàu biển, góp phần tăng trải nghiệm của du khách ngay khi rời tàu.
Các chương trình trọng điểm về du lịch được đẩy mạnh hằng năm. Mùa du lịch tàu biển thường bắt đầu vào tháng 10 và kết thúc vào tháng 4 hằng năm. Để đón mùa du lịch tàu biển đến và quay trở lại, các đơn vị đã chủ động nhiều phương án, tăng cường liên kết, làm mới các sản phẩm du lịch, đảm bảo chất lượng dịch vụ... Đặc biệt, cuối tháng 6 vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 15-8-2023. Theo đó, Quốc hội đồng ý kéo dài thời hạn visa điện tử từ 30 ngày lên 90 ngày, có giá trị nhập cảnh nhiều lần; nâng thời hạn tạm trú tại cửa khẩu cho người nhập cảnh theo diện đơn phương miễn thị thực từ 15 ngày lên 45 ngày. Qua đó, giúp khách du lịch tàu biển hoàn thành các thủ tục nhanh chóng, chủ động thời gian, lịch trình tham quan, nghỉ dưỡng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp du lịch Quảng Ninh chủ động liên kết với các đơn vị lữ hành để tạo thành chuỗi sản phẩm du lịch đồng bộ, đưa khách tham quan dễ dàng, thuận tiện.
Nhìn chung, để Quảng Ninh trở thành điểm đến của khách du lịch tàu biển, tỉnh đã xây dựng kế hoạch kích cầu đa dạng. Đặc biệt, tăng cường công tác quảng bá, tiếp thị, xúc tiến và tạo điều kiện cho các hãng tàu đưa khách đến với Hạ Long; tăng cường tham gia các hoạt động xúc tiến về du lịch tàu biển tại nước ngoài; sản xuất các bản tin, clip hình ảnh quảng bá điểm đến tại Hạ Long để gửi cho các hãng tàu phối hợp truyền thông quảng cáo điểm đến. Cùng với đó, xây dựng các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn cụ thể cho việc thúc đẩy phát triển thị trường du lịch tàu biển tại địa phương, cập nhật kịp thời để các doanh nghiệp khai thác khách du lịch tàu biển nắm biết và phối hợp.
Ngành du lịch cũng sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ, chú trọng phát triển các dòng các sản phẩm du lịch hạng sang, xây dựng kế hoạch đào tạo bổ sung đảm bảo đủ nguồn nhân lực; phát huy thế mạnh cơ sở hạ tầng giao thông, trong đó quan tâm đến bố trí các điểm dừng chân tham quan thành phố và quy hoạch chỗ dừng đỗ xe phù hợp để khách dừng chân tham quan, chụp ảnh an toàn; bổ sung các khu vực bãi đỗ xe, nhà vệ sinh công cộng trên các tuyến phố trọng điểm mà khách du lịch thường đi qua; phát huy các giải pháp kiểm soát, bảo đảm an ninh an toàn cho du khách trên địa bàn khi tham quan…/.
Xây dựng con người Quảng Ninh phát triển toàn diện theo tinh thần các nghị quyết của Đảng  (30/09/2023)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trao Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng tặng nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh  (30/09/2023)
Triết lý phát triển mạnh mẽ, bền vững và nhân văn Quảng Ninh  (30/09/2023)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên