Chuyển dịch cơ cấu cấp huyện là vấn đề bức thiết hiện nay nhằm phát huy thế mạnh mỗi địa phương trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để làm tốt công việc này đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền địa phương phải có bước đi, kế hoạch cụ thể để phát huy nội lực kết hợp với nguồn lực bên ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.

I- Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở cấp huyện.

1-Chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở cấp huyện theo hướng sản xuất hàng hóa

Chuyển sang cơ chế mới, các huyện* đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa vào thế mạnh của từng địa phương. Nhờ tiềm năng, thế mạnh được khai thác triệt để nên đã đem lại hiệu quả kinh tế cao. Chính vì vậy, sản lượng lương thực tăng, năm sau cao hơn năm trước; tuy diện tích giảm nhưng năng suất tăng nên sản lượng vẫn tăng. Ở Hải Hậu, các vùng lúa được thâm canh trên một đơn vị diện tích với giống lúa mới có năng suất cao. Những diện tích trồng lúa kém hiệu quả, năng suất thấp được chuyển sang trồng rau, quả, cây cảnh và nuôi trồng thủy sản. Những huyện đứng đầu về năng suất, sản lượng lúa của các tỉnh đều có tỷ lệ nông sản hàng hóa cao, các ngành, nghề phi nông nghiệp phát triển mạnh.

Hải Hậu, Thủy Nguyên, Kiến Thụy là những huyện ven biển, có điều kiện tự nhiên, khí hậu giống nhau nên nông nghiệp và thủy sản được coi trọng phát triển. Ở Thủy Nguyên, cùng với nông nghiệp còn đẩy mạnh phát triển công nghiệp nông thôn. Nhiều ngành, nghề như đúc gang, đúc đồng, nghề cá, nuôi trồng thủy sản được coi trọng và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các huyện đồng bằng và trung du như Nam Đàn, Lâm Thao, Tam Nông cũng phát triển nông nghiệp, chăn nuôi và ngành nghề trên địa bàn. Chăn nuôi lợn, gà, cá, vịt, ba ba, tôm càng xanh, trâu, bò, dê... đang là thế mạnh của các huyện. Nhiều hộ đầu tư hàng trăm triệu đồng để kinh doanh đã đem lại nguồn thu nhập lớn và tạo ra nhiều hàng hóa cho xã hội.

Hiện nay, xu thế ở các huyện đồng bằng và trung du đang chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Ở Kiến Thụy, các làng nghề đã thu hút lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, thủy sản như sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng khu công nghiệp. Đất ngập mặn trồng lúa kém hiệu quả được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản đem lại hiệu quả kinh tế cao. Những vùng nuôi tôm bán công nghiệp có hệ thống mương dẫn nước mặn vào và mương dẫn nước ra riêng, bảo đảm không làm ô nhiễm nguồn nước đang mở ra triển vọng lớn trong phát triển sản xuất. Trại nuôi tôm giống được đầu tư để cung cấp giống cho vùng duyên hải Bắc Bộ. Bên cạnh đó, huyện tập trung khai thác tiềm năng thế mạnh của huyện đồng bằng ven biển liền kề với thành phố để sản xuất hàng xuất khẩu, dịch vụ, cung cấp nông sản, thực phẩm cho thị trường trong nước và nước ngoài. Còn ở Lâm Thao, các trang trại chăn nuôi bò, dê, nuôi lợn, cá, gà, vịt… đang mở rộng phát triển. Sản phẩm này được khách hàng các tỉnh phía Nam mua với số lượng lớn và tiêu thụ ở Hà Nội cũng như các đô thị quanh vùng. Các dịch vụ phục vụ các khu công nghiệp, khu xây dựng được coi trọng phát triển như sản xuất và cung ứng bao bì đóng gói nông sản, hóa chất, vật liệu xây dựng. Huyện Tam Nông chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển tăng dịch vụ, tiểu công nghiệp, làng nghề, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Trên địa bàn huyện, sản phẩm sơn là “độc chiêu”, là thế mạnh trong vùng (1000 ha); trong đó, trồng thử nghiệm 200 ha sơn lá đỏ, tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả.

Ở các huyện miền núi, cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả và xây dựng các cơ sở chế biến sản phẩm hàng hóa để xuất khẩu. Các huyện đã phát huy tiềm năng rừng và đất rừng để đem lại nguồn lợi kinh tế cho địa phương. Các huyện có đặc điểm địa hình giống nhau thường chuyển dịch cơ cấu kinh tế có nét giống nhau như Văn Yên, Văn Chấn, Thanh Chương, Quỳ Hợp, Tam Nông. Chẳng hạn, ở Văn Yên đã khai thác tiềm năng rừng và đất rừng để phát triển cây công nghiệp như chè, quế (14.800 ha), chăn nuôi bò, dê… và các loại gia cầm ở quy mô lớn. Có nhiều cơ sở chế biến chè của các thành phần kinh tế trên địa bàn. Công nghiệp phát triển chủ yếu khai thác các mỏ vàng, sắt, than, đá trắng, đất hiếm…, chế biến thô hoặc bán nguyên liệu là chủ yếu. Các nhà đầu tư đã khai thác tài nguyên của địa phương nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nhiều sản phẩm hàng hóa đã có tiếng ở thị trường trong nước và nước ngoài như chè, quế, nông sản thực phẩm… Còn ở Văn Chấn chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi được coi trọng. Những giống chè mới, chè sạch được nhân rộng trên địa bàn huyện (4.000 ha) để đáp ứng cho các nhà máy chè, Công ty chè Trần Phú, Ô Long và gần 30 cơ sở chế biến chè tạo sản phẩm hàng hóa cho thị trường. Đây là huyện có nhiều chè, chiếm 30% diện tích chè của cả tỉnh, năng suất bình quân 55- 60 tạ/ha. Các khu công nghiệp đang được phát triển mạnh để khai thác tiềm năng thế mạnh của vùng đất miền Tây tỉnh Yên Bái. Các ngành nghề, dịch vụ phát triển đã tạo nguồn thu nhập cho các hộ gia đình đầu tư mua sắm máy móc, xây dựng hạ tầng cơ sở. Quỳ Hợp đã biết phát huy thế mạnh phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu, chọn giống mới có năng suất cao. Đối với công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp coi trọng phát triển các dịch vụ, làng nghề, các khu công nghiệp ở nơi có điều kiện. Lựa chọn những sản phẩm mà thị trường cần, tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, các tiềm năng thế mạnh của địa phương. Các nhà máy đường, nước khoáng, công ty khai thác đá trắng đã tạo được nhiều việc làm cho người lao động và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trên địa bàn. Ở Thanh Chương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm. Trên địa bàn huyện có nhiều nhà máy lớn hoạt động sản xuất, kinh doanh đã làm cho các vùng nguyên liệu được hình thành, tạo việc làm và thu nhập cho hộ gia đình. Cây chè đã được phát triển hướng thâm canh với quy mô trang trại ở các xã miền núi. Năm 2000 có 3.716 ha chè, năm 2006 lên 4.998 ha, tăng năng suất bình quân chè tươi tăng từ 70 - 80 tạ/ha lên 100 tạ/ha, có nhiều hộ đạt 140- 150 tạ/ha. Cây sắn cao sản KM94, HN124 phục vụ cho Nhà máy chế biến tinh bột sắn đủ nguyên liệu hoạt động. Từ khi có đường Hồ Chí Minh xây dựng hoàn thành qua phía Tây sông Lam thuộc địa bàn huyện, các cơ sở sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế đã phát triển nhanh chóng.

2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở cấp huyện gắn với áp dụng khoa học - kỹ thuật, chuyển giao khoa học - công nghệ.

Việc áp dụng khoa học - công nghệ và khoa học - kỹ thuật, các giống mới đã được coi trọng đưa vào thực tiễn cuộc sống. Ở các huyện như Hải Hậu, Thủy Nguyên, Kiến Thụy, Lâm Thao, Tam Nông, Nam Đàn, Thanh Chương đã làm tốt việc chọn giống lúa mới, giống lợn, giống cá, tôm… cho năng suất, hiệu quả cao. Nhiều gia đình đã giàu lên nhanh chóng nhờ ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh. Ở Văn Yên, Văn Chấn có nhiều trang trại của hộ nông dân trồng chè, quế đem lại thu nhập cao. Những giống chè, giống quế mới được áp dụng trên đất Yên Bái cho năng suất cao, sản phẩm được thị trường trong nước và ngoài nước ưa chuộng. Điều đáng lưu ý là ở nhiều nơi coi trọng phát triển thủy sản như Kiến Thụy, Thủy Nguyên, Hải Hậu, Lâm Thao, Văn Yên, Văn Chấn, Nam Đàn, Quỳ Hợp. Nguồn lợi từ thủy sản đã đem lại thu nhập lớn cho các hộ nông dân, giúp họ nâng cao đời sống và mở rộng sản xuất. Sự tìm tòi từ thực tiễn nuôi trồng thủy sản đã góp phần nâng cao nhận thức, trình độ nắm bắt khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất ở các địa phương.

Cùng với phát triển nông nghiệp - thủy sản, các huyện còn coi trọng phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Đây là lĩnh vực đem lại lợi nhuận lớn, có tính lâu dài, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Ở các huyện Thủy Nguyên, Quỳ Hợp, Văn Chấn, Văn Yên, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ phát triển khá đã giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Đây cũng là các địa phương đang đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, ở Văn Chấn, Văn Yên đang cần xây dựng các nhà máy chè lớn nhằm đáp ứng mua chè búp tươi từ hộ gia đình. Vấn đề đặt ra cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa người sản xuất chè búp tươi với Nhà máy chè. Trong những năm qua, các công ty trách nhiệm hữu hạn ở Văn Chấn, Thủy Nguyên, Quỳ Hợp đã có những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sở dĩ có được thành tựu này là do các cơ sở đã biết ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất để có sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Sản phẩm đá trắng ở Quỳ Hợp đã vươn ra thị trường trong nước và thị trường thế giới. Dịch vụ nghề cá ở Lập Lễ, Thủy Nguyên đáp ứng cho các tàu, thuyền từ Móng Cái đến Bạch Long Vĩ. Đây là hướng đi đúng trong cơ chế thị trường. Điều đáng chú ý là các sản phẩm hàng hóa có xu hướng đi vào giữ gìn uy tín chất lượng. Chẳng hạn: lợn từ Lâm Thao lại chở vào bán tại Đồng Nai; gạo từ Mường Lò, Văn Chấn chở bán tại Hà Nội; cam (Vinh) ở Quỳ Hợp được người tiêu dùng cả nước ưa chuộng; cá rô phi đơn tính ở Hải Hậu được Nhà máy đông lạnh Hải Phòng mua với số lượng lớn. Đó là chưa kể các sản phẩm của các huyện vươn ra thị trường nước ngoài như: chè đen ở Thanh Chương, Quỳ Hợp, Văn Chấn, Văn Yên sang các nước Trung Đông, Liên bang Nga, châu Âu, châu Phi; đá trắng ở Quỳ Hợp, sản phẩm đúc (đồng, gang) của Thủy Nguyên sang Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước châu Âu, Trung Đông; gạo tẻ Hải Hậu, Kiến Thụy, Thủy Nguyên xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc; sản phẩm sơn ở Tam Nông được các bạn hàng Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc ưa chuộng, vì sơn rất bóng, mau khô.

3- Tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trên địa bàn huyện đang là vấn đề bất cập, tác động tiêu cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản xuất.

Hiện nay, trên địa bàn cấp huyện ở nước ta việc tiêu thụ cho sản phẩm đang gặp nhiều khó khăn. Ở một số huyện Thanh Chương, Quỳ Hợp, Văn Yên, Văn Chấn có sản phẩm chè, mía, cây ăn quả… thường bị ép giá. Thực tế cho thấy, trong sản xuất hàng hóa khi sản phẩm ế thường nảy sinh các tiêu cực trong quan hệ mua bán. Người bị thua thiệt là hộ nông dân sản xuất hàng hóa. Ở nhiều huyện đã coi trọng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa các giống cây trồng, vật nuôi mới vào địa bàn huyện. Chẳng hạn cây mía ở Quỳ Hợp đã làm cho đời sống nông dân trong vùng thay da đổi thịt, góp phần xóa đói giảm nghèo. Nhờ cây mía nhiều hộ đã mua sắm được tiện nghi đắt tiền như xe máy, ti vi, trang bị nội thất, mua máy móc phục vụ sản xuất… Cây mía đã thực sự làm cho Quỳ Hợp vững bước đi lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Quan hệ giữa hộ nông dân với Nhà máy đường Quỳ Hợp được xử lý tốt thúc đẩy sản xuất phát triển. Sản phẩm đường của Nhà máy không đủ bán trên thị trường vì chất lượng cao, nhiều đơn đặt hàng mua với số lượng lớn, cung không đáp ứng cầu. Ở Văn Chấn, cây ăn quả đến mùa vụ tiêu thụ gặp nhiều khó khăn. Sản phẩm chủ yếu do tư thương đến mua tận gốc, giá cả thường bị ép nên các hộ nông dân kém phấn khởi. Trên địa bàn huyện chưa có nhà máy chế biến hoa quả mà sản lượng hàng lại lớn (7.000 tấn/năm), nên đây là bài toán chưa có lời giải. Sản phẩm chè cũng vậy, chè búp tươi (25.000 tấn) của các hộ chưa giải quyết được đầu ra. Ở các huyện Hải Hậu, Thủy Nguyên, Kiến Thụy, Lâm Thao, Tam Nông, Văn Chấn, Văn Yên, Nam Đàn, Quỳ Hợp tiềm năng chăn nuôi còn lớn. Nếu có thị trường tiêu thụ tốt sẽ đẩy mạnh các nghề chăn nuôi lợn, gia cầm, thủy cầm, dê, bò, hươu…; các nghề thủy sản nuôi tôm, cá, cua, ba ba, rùa, cá sấu, lươn, ếch… Ở Thanh Chương, đàn lợn tăng bình quân 7,7%/năm, đàn bò tăng 5,7%/năm. Đối với các huyện ven biển như Hải Hậu, Thủy Nguyên, Kiến Thụy có tiềm năng nuôi trồng thủy sản, nếu có vốn đầu tư và thị trường tiêu thụ ổn định sẽ là huyện chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả.

II-Các giải pháp pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở cấp huyện.

1. Xây dựng chương trình, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp để phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương.

Trên cơ sở quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, mà xây dựng quy hoạch của huyện cho sát hợp với lợi thế kinh tế, khả năng cạnh tranh của từng vùng. Chương trình, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở cấp huyện cần chú trọng lấy hiệu quả kinh tế làm nền tảng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Ứng dụng các thành tựu khoa học, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với thực hiện cơ giới hóa, điện khí hóa và thủy lợi hóa nhằm đưa kinh tế huyện từng bước đi lên. Hướng tiếp cận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Đối với cây lương thực cần xây dựng các vùng sản xuất lúa gạo chất lượng cao, giá thành hạ, gắn với chế biến và tiêu thụ. Đối với cây công nghiệp, rau quả cần hình thành các vùng sản xuất tập trung, ứng dụng khoa học công nghệ sinh học để có giống tốt cho năng suất cao, phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu. Đối với chăn nuôi cần khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, hình thức trang trại với quy mô phù hợp, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Đặc biệt là nuôi trồng thủy sản gắn với chế biến, bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm… Phát triển các hình thức nuôi (tôm, cá) công nghiệp, bán công nghiệp và nuôi sinh thái phù hợp với điều kiện tự nhiên từng vùng.

2- Coi trọng phát huy vai trò của các thành phần kinh tế vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện.

Trong phát triển các thành phần kinh tế ở cấp huyện cần xác định rõ kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể có vị trí ngày càng lớn trong nền kinh tế, kinh tế tư nhân có vai trò rất quan trọng là một động lực cho tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần xóa đói giảm nghèo. Thực tế cho thấy, kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển khá tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội. Để các thành phần kinh tế phát triển, cần có cơ chế, chính sách đồng bộ, thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Điều quan trọng là cần tách bạch rõ ràng chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển. Khuyến khích và tạo điều kiện để kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển trên cơ sở liên kết, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa các hộ, trang trại bằng nhiều hình thức, quy mô, cấp độ. Hợp tác xã làm dịch vụ “đầu vào” và “đầu ra” cho sản xuất nông nghiệp, hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, liên kết với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế để tiêu thụ sản phẩm hàng hóa.

3- Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng cho công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Hiện nay, ở cấp huyện đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ. Cho nên, việc đào tạo cán bộ cấp huyện cần được chú trọng cả về chuyên môn, nghiệp vụ. Vấn đề là làm thế nào để đội ngũ cán bộ cấp huyện gắn bó lâu dài với cơ sở. Do vậy, cần có cơ chế, chính sách để chiêu hiền đãi sĩ, kéo nhân tài về cơ sở. Trong thời gian tới, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế cấp huyện có hiệu quả cần bổ sung đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học - kỹ thuật, am hiểu công nghệ mới. Tổ chức quản lý có hiệu quả các loại hình sản xuất, kinh doanh ở các thành phần kinh tế. Khuyến khích các hình thức sản xuất như kinh tế hộ, kinh tế trang trại nhằm tạo ra các mô hình tiên tiến để nhân ra diện rộng. Có chính sách để các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh và tạo việc làm cho người lao động, góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Mở các lớp học đào tạo các ngành nghề để đáp ứng cho các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế, nhất là các khu công nghiệp trên địa bàn.

4- Xây dựng các mô hình kinh tế ở các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.

Muốn chuyển dịch kinh tế cơ cấu kinh tế cấp huyện có hiệu quả cần nhân rộng các mô hình kinh tế ở các thành phần kinh tế lấy thước đo hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá. Có cơ chế, chính sách để hỗ trợ, tạo điều kiện cho các mô hình này hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, nhiều huyện đã tạo điều kiện về mặt bằng kinh doanh, vốn vay, hỗ trợ lãi suất, dãn nợ để các doanh nghiệp, các trang trại phát triển. Có nhiều mô hình chuyển đất lúa sang nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao. Đây là những mô hình tốt cần được nhân rộng để góp phần xóa đói giảm nghèo. Mặt khác, cần xử lý tốt việc tích tụ ruộng đất, phân công lại lao động trong nông nghiệp, nông thôn để có mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả kinh tế cao. Ngoài áp dụng khoa học - kỹ thuật, chuyển giao công nghệ mới, đầu tư thâm canh, cần khuyến khích tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp, nông thôn. Trong nuôi trồng thủy sản ở mỗi huyện cần có quy mô thích hợp gắn với bảo vệ môi trường và tiêu thụ sản phẩm. Mỗi địa phương cần chọn cho mình một cơ cấu giống cây, giống con cho phù hợp, tránh bị lệ thuộc quá mức vào nguồn giống cung cấp từ bên ngoài ./.



* Bài viết dựa trên tư liệu khảo sát thực tế tại 10 huyện: Hải Hậu (Nam Định ), Thủy Nguyên, Kiến Thụy (Hải Phòng), Lâm Thao, Tam Nông (Phú Thọ), Văn Yên, Văn Chấn (Yên Bái), Quỳ Hợp, Nam Đàn, Thanh Chương (Nghệ An).