TCCSĐT - Ngày 30-6-2010, dự luật Cải cách Tài Chính Phố Wall và Bảo vệ người tiêu dùng (Dodd-Frank Wall Street and Consumer Protection Act), mệnh danh là Dodd - Frank, theo tên hai tác giả chính là thượng nghị sỹửCit-xtô-phơ Đót (Christopher Dodd) và Dân biểu Bác-ni Phơ-ranh (Barney Frank) đã được Hạ Viện thông qua với 237 phiếu thuận và 192 phiếu chống. Ngày 15-7-2010 Thượng viện Mỹ đã thông qua dự luật với 60 phiếu thuận và 39 phiếu chống. Ngày 21-7-2010, Tổng thống Mỹ B.Ô-ba-ma đã ký thông qua chính thức Đạo luật Dodd-Frank như là thắng lợi lớn về lập pháp thứ hai của ông Ô-ba-ma liên tiếp trong năm 2010, sau việc thông qua Luật cải cách hệ thống bảo hiểm y tế vào 3-2010.

Sự ra đời của Đạo luật Dodd-Frank bắt nguồn từ việc nhận thức lại của chính giới Mỹ về vai trò của bàn tay nhà nước và từ thực tiễn kinh tế-tài chính Mỹ suốt 3 thập kỷ trước đó. Cuộc khủng hoảng tài chính từ năm 2008 đến nay đã chỉ ra những điểm yếu cố hữu của hệ thống tài chính Mỹ nói riêng, và cơ chế kinh tế thị trường hiện hành của Mỹ nói riêng, đặc biệt là sự thái quá của cơ chế thị trường tự do, thiếu sự giám sát của chính phủ, kích thích xu hướng chạy theo các hoạt động rủi ro cao vì mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn, và hệ thống quy định pháp luật cũng như hệ thống giám sát tài chính không theo kịp sự phát triển của các định chế tài chính và sản phẩm dịch vụ tài chính phức tạp, trong đó có các chứng khoán - công cụ nợ tài chính phái sinh.

Bên cạnh những giải pháp tình thế, như hỗ trợ thanh khoản, bảo lãnh các khoản vay nhằm giải tỏa tình trạng đóng băng tín dụng, thực hiện các gói cứu trợ đối với hệ thống tài chính ngân hàng, tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tạm thời, Chính phủ của ông B.Ô-ba-ma cũng đã nhận thức được sự cần thiết phải đưa ra giải pháp dài hạn, mang tính tái cấu trúc và thay đổi tổng thể hệ thống tài chính Mỹ nhằm ngăn chặn hữu hiệu và vững chắc các nguy cơ khủng hoảng tương tự trong tương lai.

Đạo luật Dodd-Frank là một phần của bước chuyển mang tính toàn cầu từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, theo đó Chính phủ sẽ can dự sâu hơn vào ngành tài chính.

Những nội dung chủ đạo của Đạo luật Dodd-Frank

Đạo luật Dodd-Frank đề cập và điều chỉnh hầu hết các vấn đề trọng yếu của thị trường tài chính tại Mỹ, bao gồm cấu trúc hệ thống giám sát, mối quan hệ của các cơ quan giám sát, các trung gian tài chính, sản phẩm dịch vụ tài chính và bảo vệ người gửi tiền, người sử dụng dịch vụ tài chính…với những điểm mới đáng chú ý như sau:

- Thành lập Văn phòng bảo vệ tài chính tiêu dùng (CFPB) nhằm tăng cường bảo vệ người tiêu dùng khỏi các sản phẩm tài chính không công bằng hoặc mang tính lừa đảo;

- Thành lập Hội đồng giám sát ổn định tài chính (FSOC) nhằm tăng cường giám sát và giải quyết vấn đề rủi ro hệ thống đối với khu vực tài chính-ngân hàng;

- Tăng cường quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng và lĩnh vực giám sát; đảm bảo tính minh bạch và hạn chế rủi ro đối với các sản phẩm chứng khoán phái sinh; tăng cường trách nhiệm của các tổ chức tài chính-tín dụng đối với an toàn hệ thống; đặt ra các điều khoản cho phép thực hiện phá sản với bất kỳ tổ chức tài chính-ngân hàng nào;

- Đưa ra các quy định liên quan đến hoạt động của các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, vấn đề lương thưởng của Ban lãnh đạo định chế tài chính, tăng cường năng lực của Ủy ban giao dịch chứng khoán và các cơ quan đảm bảo an toàn tài chính khác.

Điểm nổi bật nữa của Đạo luật này là quy định trong vài năm các ngân hàng lớn phải rút dần vốn ra khỏi các quỹ đầu cơ, quỹ tư nhân và chỉ được nắm giữ tối đa 3% số cổ phiếu của các quỹ này. Các thể chế tài chính sẽ phải tái cơ cấu nhằm giảm bớt các ngân hàng có quy mô khổng lồ như Lehman. Đạo luật sẽ áp dụng các khoản phí và hạn chế mới đối với các ngân hàng lớn nhất nước, đặt ra các giới hạn đối với thị trường phái sinh trị giá 450.000 tỉ USD, cũng như bảo vệ người tiêu dùng trước các tài sản thế chấp và thẻ tín dụng. Biện pháp này sẽ giảm thiểu tác động xấu đến nền kinh tế nếu các thể chế tài chính sụp đổ.

Tóm lại, Đạo luật đề ra những cách thức mới để giám sát rủi ro trong hệ thống tài chính, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc đóng cửa các công ty tài chính lớn bị thua lỗ; đề ra những luật lệ mới cho việc kinh doanh các sản phẩm chứng khoán phái sinh phức tạp – đầu mối gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, và thành lập một cơ quan mới bảo vệ người tiêu dùng tài chính.

Đạo luật cũng áp đặt những hạn chế mới lên các ngân hàng lớn nhất, có liên hệ chặt chẽ với nhau, đòi hỏi ngân hàng khi cho vay phải có chứng cớ cho thấy người vay có khả năng thanh toán; nghĩa là người vay tiền phải chứng minh mình có thu nhập ổn định và đủ để thanh toán lãi và vốn vay hàng tháng, nói như Tổng thống B.Ô-ba-ma thì “Mục đích của chúng tôi không phải là trừng phạt các ngân hàng, mà để bảo vệ nền kinh tế và người dân Mỹ khỏi những rối loạn mà chúng ta đã chứng kiến trong mấy năm qua”.

Tác động hai chiều của Đạo luật Dodd-Frank đối với nền kinh tế - tài chính của Mỹ và thế giới

Đối với nền kinh tế Mỹ:

Việc thực thi Đạo luật sẽ có tác động trái chiều đến kinh tế Mỹ và thế giới, tuy nhiên tác động tích cực được kỳ vọng sẽ vượt trội tác động tiêu cực.

Tác động tích cực được kỳ vọng lớn nhất của Đạo luật là sẽ chấm dứt tình trạng xẩy ra những vụ “mờ ám’’ đã đẩy hệ thống tài chính Hoa Kỳ vào tình trạng khủng hoảng năm 2008, làm rối loạn nền kinh tế Mỹ và gây thiệt hại cho người dân đóng thuế. Các nghị sỹ ủng hộ Đạo luật thì cho rằng, họ đã thành công trong việc bảo vệ quyền lợi của cử tri, và ca ngợi Đạo luật mới là sự phản ứng có hiệu quả đối với tình trạng lạm dụng trên thị trường tài chính, sự yếu kém trong điều hành và phán đoán sai lầm của người tiêu dùng – những yếu tố đã đẩy nước Mỹ vào cuộc suy thoái kinh tế.
 
Lãnh đạo phe đa số trong Thượng viện, thượng nghị sĩ Ha-ri Rết (Harry Reid), nhấn mạnh: “Với Wall Street, Đạo luật mới nói rằng: Các người không còn có thể liều lĩnh đánh bạc bằng tiền của nhân dân. Thời đại các doanh nghiệp “quá lớn đến mức không thể sụp đổ” (too big to fail) đã là dĩ vãng. Trò chơi đã kết thúc”. Thông qua việc triển khai các tiêu chuẩn an toàn chặt chẽ hơn, trong đó có các yêu cầu về vốn, chất lượng tín dụng, tỷ lệ đòn bẩy, thanh khoản và quản trị ngân hàng, nâng cao chất lượng chung của cả hệ thống tài chính, các ý kiến ủng hộ Đạo luật hy vọng qua đó duy trì lòng tin của người tiêu dùng và người gửi tiền, ngăn ngừa hoảng loạn và đảm bảo quá trình phát triển bền vững của hoạt động tài chính ngân hàng.

Còn theo Tổng thống Ô-ba-ma, Đạo luật sẽ gia tăng trách nhiệm của các định chế tài chính, nhưng không làm tê liệt thị trường tự do, thậm chí không chỉ có lợi cho người tiêu dùng, mà còn có tác động tích cực đối với nền kinh tế và giúp các nhà đầu tư đưa ra quyết định khôn ngoan hơn, chấm dứt việc dùng tiền nộp thuế của người dân để tung ra các gói cứu trợ. Phát biểu tại lễ ký, ông Ô-ba-ma cho rằng, đạo luật mới sẽ giúp đỡ dân chúng trong cuộc sống hàng ngày, từ ký các hợp đồng, hiểu rõ các khoản lệ phí, cho tới nhận thức được những nguy cơ. Ông cũng thừa nhận, chỉ có thực thi hữu hiệu bộ luật này và không ngừng tiến hành điều chỉnh trong quá trình thực thi thì mới có thể thu được hiệu quả như dự kiến.

Tuy nhiên, những người phản đối thì ca thán rằng, Quốc hội đã thất bại trong việc phản ánh và bảo vệ nguyện vọng của cử tri Mỹ, vì Đạo luật mới gia tăng quyền hạn của Chính phủ đối với hoạt động của các công ty tài chính tư nhân, vi phạm nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường và sẽ gây ra những hệ quả không mong muốn. Họ cho rằng, Đạo luật này như là một gánh nặng đối với các ngân hàng cỡ nhỏ và những doanh nghiệp dựa vào chúng, sẽ khiến người tiêu dùng tốn kém và cản trở tăng trưởng việc làm.

Thượng nghị sĩ Giút Gơ-rêch (Judd Gregg) của Đảng Cộng hòa cáo buộc Đạo luật “đặt ra những lớp quy định mới chồng lên những lớp quy định cũ và không cần thiết đối với các định chế tài chính, chắc chắn sẽ gây cản trở cho việc tiếp cận tín dụng của các gia đình và doanh nghiệp Mỹ”. Nghị sĩ Ri-chac Sen-bi (Richard Shelby) của Đảng Cộng hòa, cho rằng: “quyết định của Thượng viện Mỹ hôm nay sẽ tác động đến cuộc sống của người Mỹ trong nhiều thập niên sắp tới. Sự phán xét phải do thị trường đưa ra”.... Hơn nữa, họ còn chỉ trích rằng, trong tình hình chưa có đủ việc làm và tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao như hiện nay, thì những can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế của nhà nước sẽ khiến nhiều hoạt động và việc làm trong lĩnh vực tài chính chuyển ra nước ngoài, ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi nhuận của các ngân hàng, nhiều doanh nghiệp và người tiêu thụ không vay được vốn ngân hàng, làm tổn hại cho nền sản xuất của nước Mỹ.

Về nguyên tắc, hướng quy định khắc nghiệt hơn của Đạo luật có thể buộc các tổ chức tài chính phải dành nhiều nguồn lực hơn để tuân thủ và do đó thị trường tài chính sẽ khó có thể phát triển nhanh, mạnh như trước đây và có thể làm giảm tỷ suất lợi nhuận trung bình ngành.

Hơn nữa, sự phản đối còn biện giải rằng, việc áp dụng Đạo luật này sẽ ít nhiều làm tổn thương nguyên tắc kinh doanh tự do vốn được sùng bái như một công cụ làm tăng sự thịnh vượng của nền kinh tế Mỹ suốt mấy thập kỷ qua cũng như làm tăng nghĩa vụ tài chính, chi phí và hạn chế quyền lợi, trong đó có quyền tự do kinh doanh khó giới hạn và lợi nhuận của các tổ chức tài chính-ngân hàng Mỹ …

Trong việc "kìm chế phố Uôn", Đạo luật này bao gồm quy tắc hạn chế ngành ngân hàng do cựu chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Vôn-cơ đề xuất, theo đó, một là hạn chế quy mô của ngân hàng thương mại, tránh xuất hiện "quy mô lớn đến mức không được phá sản"; hai là hạn chế ngân hàng lợi dụng vốn của mình để tiến hành kinh doanh giao dịch; ba là hạn chế quy mô về tự thành lập Quỹ Tự bảo hiểm rủi ro và Quỹ gọi thầu cổ phần của ngân hàng.

Là đối tượng cải cách giám sát quản lý, phố Uôn sẽ đứng trước tiêu chuẩn giám sát, quản lý cao hơn, quy định lương bổng nghiêm ngặt hơn, thậm chí đứng trước rủi ro buộc phải thanh toán theo từng nghiệp vụ. Tuy nhiên, như Báo Bưu điện Oa-sinh-tơn nêu rõ, Đạo luật mới chưa thể tạo dựng lại phố Uôn. Sự ra đời của Đạo luật không có nghĩa là phố Uôn đã chịu sự "kìm chế", mặc dù các ngân hàng và cơ quan tài chính lớn sẽ bị tác động không thể tránh được, nhưng mô hình thương mại và tình hình doanh thu của phố Uôn sẽ không có sự thay đổi căn bản.

Người tiêu dùng và các nhà đầu tư Mỹ là những người được chia sẻ lợi ích nhiều nhất từ Đạo luật này. Tổ chức người tiêu dùng cho rằng, Đạo luật này có thể bảo hộ người tiêu dùng tránh được các vụ lừa đảo khi vay tín dụng nhà ở và thẻ tín dụng v.v.. song Tổ chức người tiêu dùng đồng thời nêu rõ, việc thiết lập cơ quan mới này sẽ khiến việc xem xét các khoản vay tín dụng càng nghiêm khắc hơn, cũng có nghĩa là người dân gặp khó khăn nhiều hơn trong việc xin vay tín dụng, phạm vi lựa chọn bị giảm, nhưng giá thành thì lại tăng cao, đặc biệt là cộng đồng thu nhập thấp càng thiệt thòi hơn. Chủ tịch đảng Cộng hòa, Thượng Nghị sỹ Mắc-cô-nen cho rằng, kết quả của cuộc cải cách này sẽ khiến vấn đề thất nghiệp càng thêm trầm trọng.

Đối với đời sống tài chính thế giới. Về nguyên tắc, Đạo luật Dodd-Frank có thể tác động đến đời sống tài chính thế giới theo 2 hướng: Một mặt, Đạo luật truyền đi các thông điệp cần thiết, từ đó làm thay đổi nhận thức và tạo ra làn sóng mới việc hoàn thiện cơ sở luật pháp trong mỗi nước và quốc tế, cũng như thành lập thêm các định chế cần thiết, tăng cường các hoạt động và công cụ hữu hiệu nhằm hỗ trợ giám sát tài chính nhà nước và bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động của các thị trường tài chính quốc gia và quốc tế; từ đó góp phần giữ gìn sự ổn định chung các hoạt động tài chính quốc gia và quốc tế trong tương lai.

Ông Lo-ren-xơ Săm-mơ (Lawrence Summers), giám đốc Ủy ban Kinh tế Mỹ, cho rằng: “Chúng ta cần những đạo luật tài chính nhằm giúp thế giới này an toàn hơn trước sự dốt nát và tính tham lam, thay vì trông chờ vào việc thay đổi những điều đó”. Mặt khác, Đạo luật có thể kéo theo sự thu hẹp nhất định về quy mô các hoạt động đầu tư và tín dụng, nhất là đầu tư mang tính đầu cơ và mạo hiểm, từ đó làm thu hẹp quy mô và cường độ nóng của các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Khi các quy định chặt chẽ hơn được áp dụng đối với các ngân hàng, có thể nhà đầu tư sẽ phải cân nhắc nhiều hơn trước khi rót vốn vào bất kỳ thị trường nào; các ngân hàng có thể hạn chế cho vay vì sợ bị trách nhiệm, hoặc cho vay với lãi suất cao hơn, lệ phí nặng hơn.

Giám đốc điều hành của ngân hàng HSBC - ngân hàng châu Âu lớn nhất thế giới - tại Bắc Mỹ dự báo, Đạo luật Dodd-Frank của Mỹ sẽ gây thiệt hại ít nhất 110 triệu USD cho doanh thu hàng năm của ngân hàng này từ các giao dịch bằng thẻ ghi nợ do tăng mức lệ phí mà các ngân hàng của Mỹ phải trả cho Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC).

Tác động của Đạo luật Dodd-Frank còn tùy thuộc vào sự cụ thể hóa và thời hiệu thi hành những quy định mà nó đưa ra, trong khi còn nhiều quy định chưa rõ ràng và rất nhiều các biện pháp cải cách ngân hàng mới được đưa ra phải mất nhiều năm nữa mới được tiến hành. Đến tận 2013, các ngân hàng mới phải đáp ứng các yêu cầu mới về vốn. Điều khoản các công ty phải giảm bớt tỷ lệ nắm giữ của mình trong các quỹ phòng hộ và các quỹ cổ phần riêng phải mất tới 12 năm để bắt đầu có hiệu lực.
 
Ông Xi-mông Giôn-xơn (Simon Johnson), nguyên chuyên gia kinh tế trưởng của IMF, cho rằng việc hoãn công cuộc cải cách đến tận 2018 cũng giống như “không làm gì cả, vì thế giới sẽ còn biến động rất nhiều từ giờ cho đến lúc đó”. Còn ông Roi Xmit (Roy Smith) - giáo sư tài chính tại trường kinh doanh Stern của Đại học Niu Oóc, nhận xét: “Theo kinh nghiệm của chúng tôi, nền kinh tế sẽ không được bảo vệ khỏi các cuộc khủng hoảng tài chính trong vòng từ 8 đến 10 năm nữa.”…

Riêng đối với Việt Nam, Mỹ đã, đang và sẽ tiếp tục là đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam. Năm 2009, mặc dù đang chịu tác động nặng nề bởi khủng hoảng tài chính, nhưng Mỹ vẫn là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất. Đây cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Có thể, trong thời gian tới, khả năng vốn đầu tư từ Mỹ vào Việt Nam sẽ trở nên khó khăn hơn ít nhiều. Tuy nhiên, rất khó có thể định lượng mức độ ảnh hưởng này bởi dòng vốn đầu tư chảy vào mỗi quốc gia còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như tiềm năng nội tại, lợi thế so sánh và chính sách ưu đãi...

Thông qua việc Mỹ áp dụng Đạo luật Dodd-Frank, Việt Nam càng củng cố hơn nhận thức của mình về yêu cầu giám sát tài chính, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng quốc gia, vì thế đã và đang có nhiều động thái cần thiết và đúng hướng theo tinh thần này. Chẳng hạn, việc thực hiện các Chỉ thị của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết gói kích cầu; và mới đây là thực hiện Thông tư 13 của Ngân hàng Nhà nước về tăng cường yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Về tổng thể và dài hạn, việc liên tục đánh giá và cải cách cơ sở pháp lý điều chỉnh hệ thống tài chính là việc làm cần thiết nhằm ngăn ngừa khủng hoảng trong tương lai. Trong đó, cần xác định hướng phát triển tổng thể của hệ thống tài chính, xác định chức năng nhiệm vụ của các cơ quan có chức năng giám sát, ổn định tài chính.

Việc xây dựng và tập dượt các kịch bản đối phó với các biến cố và khủng hoảng tài chính-ngân hàng cũng nên được quan tâm nhằm tăng tính chủ động và kỹ năng đối phó với khủng hoảng của các cấp và người dân./.