Quảng Ninh phát triển kinh tế biển bền vững gắn với bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường
TCCS - Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Quảng Ninh - tỉnh ven biển địa đầu Đông Bắc Tổ quốc đã phát huy tối đa lợi thế hơn 250km bờ biển, hơn 2.000 hòn đảo cùng hệ sinh thái biển phong phú, đạt nhiều thành tựu nổi bật trên cả ba phương diện: phát triển kinh tế biển, bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường.
Kinh tế biển: Động lực tăng trưởng của tỉnh Quảng Ninh
Kinh tế biển đang trở thành một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của tỉnh Quảng Ninh, thể hiện rõ qua sự phát triển đồng bộ, hiện đại của hệ thống cảng biển và dịch vụ logistics. Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, tỉnh Quảng Ninh đã tập trung quy hoạch, đầu tư hạ tầng cảng biển với tầm nhìn dài hạn, bảo đảm kết nối thông suốt giữa các khu kinh tế, khu công nghiệp và tuyến hàng hải quốc tế. Những công trình tiêu biểu, như cảng tổng hợp Cái Lân, cảng container Hải Hà, cảng hàng hóa Hòn Nét - Con Ong không chỉ phục vụ hiệu quả nhu cầu xuất - nhập khẩu của tỉnh Quảng Ninh mà còn mở rộng khả năng giao thương với các đối tác quan trọng, như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN. Nhờ sự đầu tư đồng bộ và quản lý hiệu quả, năm 2024, tổng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng biển của tỉnh Quảng Ninh đạt hơn 110 triệu tấn, tăng 8,5% so với năm 2023; dịch vụ logistics gắn với cảng biển đóng góp khoảng 8% GRDP của tỉnh Quảng Ninh, khẳng định vai trò trụ cột của hạ tầng giao thông biển trong phát triển kinh tế địa phương(1).
Song song với phát triển logistics, du lịch biển, đảo của Quảng Ninh đã vươn lên trở thành một trong ba trụ cột kinh tế của tỉnh, mang lại giá trị gia tăng cao và đóng góp tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ. Với lợi thế sở hữu 4 trong tổng số 8 khu du lịch quốc gia ven biển được quy hoạch trên cả nước, đặc biệt là Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên thế giới hai lần được UNESCO công nhận, tỉnh Quảng Ninh đã thu hút mạnh mẽ khách du lịch trong nước và quốc tế. Năm 2024, tỉnh Quảng Ninh đón hơn 16,5 triệu lượt khách, trong đó có trên 5,4 triệu lượt khách quốc tế; tổng thu từ du lịch ước đạt 39.000 tỷ đồng, góp phần nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động(2). Hạ tầng du lịch biển được đầu tư đồng bộ với nhiều công trình trọng điểm, như Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long, Sân bay quốc tế Vân Đồn, các khu nghỉ dưỡng cao cấp tại Cô Tô, Quan Lạn, Tuần Châu,… vừa nâng cao năng lực phục vụ, vừa tạo sự đồng bộ giữa phát triển kinh tế và bảo tồn cảnh quan, môi trường sinh thái. Việc chú trọng gắn kết giữa khai thác tiềm năng du lịch và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển đã tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững, củng cố vị thế trung tâm du lịch biển hàng đầu cả nước của tỉnh Quảng Ninh.
Bên cạnh dịch vụ cảng biển và du lịch, nuôi trồng, khai thác và chế biến hải sản bền vững cũng là một lĩnh vực kinh tế biển quan trọng, góp phần bảo đảm an ninh lương thực và nâng cao giá trị xuất khẩu của tỉnh. Những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh đã đẩy mạnh chuyển đổi từ khai thác ven bờ sang nuôi biển công nghệ cao, áp dụng các mô hình tiên tiến, như nuôi cá lồng tròn HDPE, nuôi nhuyễn thể có chứng nhận MSC/ASC, đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của thị trường EU, Nhật Bản và Mỹ. Đến cuối năm 2024, diện tích nuôi biển đạt hơn 3.500ha, sản lượng thủy sản ước đạt 153.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu vượt 200 triệu USD(3). Tỉnh chú trọng phát triển chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất giống, nuôi trồng, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ, gắn với truy xuất nguồn gốc, bảo đảm an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái biển. Việc tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung, liên kết hợp tác xã - doanh nghiệp - ngư dân không chỉ nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn góp phần ổn định sinh kế, giữ gìn truyền thống văn hóa biển của cộng đồng ngư dân địa phương.
Những kết quả đạt được trong phát triển đồng bộ các lĩnh vực cảng biển - logistics, du lịch biển đảo và nuôi trồng hải sản bền vững đã khẳng định tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Ninh trong thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển, đưa tỉnh Quảng Ninh trở thành một cực tăng trưởng quan trọng của khu vực phía Bắc và cả nước.
Bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học biển
Bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học biển luôn được tỉnh Quảng Ninh xác định là nhiệm vụ song hành với phát triển kinh tế biển, nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng và gìn giữ các giá trị tự nhiên. Đây không chỉ là yêu cầu xuất phát từ thực tiễn địa phương có hệ sinh thái biển phong phú, đa dạng mà còn là một nội dung quan trọng được Nghị quyết số 36-NQ/TW nhấn mạnh. Quán triệt tinh thần đó, tỉnh Quảng Ninh đã quy hoạch và quản lý hiệu quả hệ thống khu bảo tồn biển, kết hợp các chương trình phục hồi môi trường và nguồn lợi thủy sản, hình thành cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng ngư dân.
Hiện, tỉnh Quảng Ninh đã thiết lập ba khu bảo tồn biển quan trọng gồm Cô Tô, Vân Đồn và Bái Tử Long với tổng diện tích hơn 45.000ha, tập trung bảo vệ các hệ sinh thái đặc trưng, như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn và các loài thủy sinh quý hiếm. Song song với quản lý bảo tồn, tỉnh đẩy mạnh phục hồi sinh thái, cụ thể là từ năm 2018 đến nay, tỉnh Quảng Ninh đã trồng mới và phục hồi trên 2.000ha rừng ngập mặn, tạo lá chắn xanh tự nhiên trước tác động của biến đổi khí hậu và xói lở bờ biển; triển khai thí điểm phục hồi 50ha rạn san hô tại vịnh Bái Tử Long; hằng năm thả trên 20 triệu con giống thủy sản ra môi trường tự nhiên nhằm tái tạo nguồn lợi.
Các chương trình bảo tồn được kết hợp với nâng cao nhận thức cộng đồng. Tỉnh Quảng Ninh tổ chức hàng trăm lớp tập huấn, hội thảo cho ngư dân về khai thác hợp lý, sử dụng ngư cụ thân thiện môi trường, tuân thủ mùa vụ khai thác để bảo vệ sinh sản của các loài. Đồng thời, các mô hình du lịch sinh thái cộng đồng gắn với bảo tồn biển ở Cô Tô, Quan Lạn, Minh Châu,… cũng được khuyến khích phát triển, vừa tạo sinh kế ổn định, vừa góp phần lan tỏa ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Điểm nổi bật trong công tác bảo tồn của tỉnh Quảng Ninh là sự chủ động trong hợp tác quốc tế. Nhiều dự án phối hợp với các tổ chức, như Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) được triển khai nhằm hỗ trợ tỉnh về kỹ thuật và nguồn lực để giám sát đa dạng sinh học, phục hồi sinh cảnh, giảm thiểu rác thải nhựa đại dương. Nhờ đó, công tác bảo tồn biển của tỉnh Quảng Ninh không chỉ đạt hiệu quả tại chỗ mà còn đóng góp vào thực hiện các cam kết quốc gia về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường theo Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc.
Việc bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học biển đã trở thành một cấu phần hữu cơ trong chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững của tỉnh Quảng Ninh. Sự kết hợp giữa quản lý khoa học, phục hồi hệ sinh thái, huy động cộng đồng và hợp tác quốc tế đã giúp tỉnh vừa bảo vệ được các giá trị thiên nhiên, vừa tạo nền tảng lâu dài cho phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với định hướng của Đảng và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Bảo vệ môi trường biển gắn với phát triển bền vững
Bảo vệ môi trường biển gắn với phát triển bền vững là yêu cầu mang tính chiến lược được tỉnh Quảng Ninh quán triệt thực hiện như một nguyên tắc xuyên suốt trong mọi hoạt động của kinh tế biển. Nghị quyết số 36-NQ/TW đã xác định quản lý, bảo vệ môi trường biển, hải đảo; chủ động phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm và sự cố môi trường biển; ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Trên cơ sở đó, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, vừa bảo đảm mục tiêu phát triển, vừa giữ gìn môi trường sinh thái, sức khỏe cộng đồng và hình ảnh một địa phương ven biển xanh, sạch, đẹp.
Trước hết, tỉnh Quảng Ninh chú trọng hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường kiểm soát ô nhiễm biển. Các quy định về thu gom, xử lý chất thải rắn, nước thải từ hoạt động du lịch, nuôi trồng và khai thác thủy sản được áp dụng nghiêm ngặt; các cơ sở nuôi biển quy mô lớn phải có hệ thống xử lý chất thải đạt chuẩn. Năm 2024, tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành hơn 500 cuộc kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về môi trường biển, xử phạt trên 150 trường hợp với tổng số tiền hơn 3,5 tỷ đồng(4). Công tác giám sát chất lượng nước biển được thực hiện thường xuyên tại các khu du lịch, khu nuôi trồng tập trung, cảng biển, bảo đảm các chỉ số môi trường nằm trong giới hạn cho phép.
Song song, tỉnh đẩy mạnh các chiến dịch giảm thiểu rác thải nhựa đại dương. Phong trào “Biển không rác”, “Ngày Chủ nhật xanh”, “Chống rác thải nhựa” được triển khai rộng khắp, huy động hàng chục nghìn lượt đoàn viên, thanh niên, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và người dân tham gia. Chỉ riêng năm 2023, các chiến dịch đã thu gom hơn 1.200 tấn rác thải ven biển, trong đó phần lớn là rác thải nhựa. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp du lịch, dịch vụ ven biển đã tự nguyện cam kết giảm sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần, góp phần tạo thay đổi tích cực trong thói quen tiêu dùng và hành vi ứng xử với môi trường.
Tỉnh Quảng Ninh cũng chú trọng ứng dụng công nghệ trong quản lý môi trường biển. Hệ thống cơ sở dữ liệu môi trường được xây dựng, kết nối với các trung tâm điều hành thông minh của tỉnh, cho phép theo dõi, cảnh báo sớm nguy cơ ô nhiễm, sự cố tràn dầu, hoặc các hiện tượng bất thường về môi trường nước biển. Công nghệ GIS, viễn thám và thiết bị giám sát tự động được đưa vào sử dụng, giúp nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu độ trễ trong xử lý tình huống.
Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh còn tích cực phối hợp với các bộ, ban, ngành trung ương và các tổ chức quốc tế trong phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và biến đổi khí hậu. Các dự án hợp tác với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã hỗ trợ tỉnh Quảng Ninh trong đào tạo nhân lực, nâng cấp hạ tầng xử lý chất thải, trồng và phục hồi rừng ngập mặn ven biển, góp phần tăng khả năng chống chịu của hệ sinh thái và cộng đồng trước tác động của thiên tai, bão lũ, nước biển dâng.
Những kết quả trên cho thấy, tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện thành công mục tiêu kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường, hài hòa lợi ích kinh tế - xã hội với lợi ích sinh thái, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững. Môi trường biển được gìn giữ, cảnh quan ven biển được cải thiện, chất lượng sống của người dân được nâng cao, đồng thời hình ảnh một Quảng Ninh năng động, xanh và thân thiện tiếp tục được khẳng định, xứng đáng là điểm sáng trong thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Kết hợp mục tiêu kinh tế, sinh thái và xã hội
Kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế, sinh thái và xã hội là yêu cầu xuyên suốt, bảo đảm cho kinh tế biển Quảng Ninh phát triển bền vững và lâu dài. Việc triển khai song song Nghị quyết số 36-NQ/TW và Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” đã tạo nền tảng quan trọng để tỉnh Quảng Ninh nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế biển, đồng thời phát huy tiềm năng, lợi thế địa phương theo hướng gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và an sinh xã hội.
Tỉnh Quảng Ninh đã sắp xếp các cơ quan quản lý biển, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp theo hướng tinh gọn, liên thông, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các ngành, các cấp và các địa phương ven biển. Cơ chế phối hợp liên ngành được thiết lập để xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển, quản lý hoạt động hàng hải, du lịch, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Việc tinh gọn bộ máy không chỉ giúp giảm chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ mà còn nâng cao tính chủ động, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Về phương diện kinh tế - xã hội, tỉnh Quảng Ninh chú trọng tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven biển. Ngư dân được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp từ khai thác ven bờ sang nuôi biển công nghệ cao, dịch vụ hậu cần nghề cá và du lịch cộng đồng, qua đó giảm áp lực lên nguồn lợi thủy sản, đồng thời nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Nhiều chương trình tín dụng ưu đãi, hỗ trợ khoa học - kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm được triển khai, khuyến khích người dân mạnh dạn đầu tư đổi mới phương thức sản xuất, tham gia chuỗi giá trị kinh tế biển.
Tỉnh Quảng Ninh cũng gắn kết chặt chẽ mục tiêu phát triển kinh tế biển với nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi xã hội cho người dân. Các công trình hạ tầng thiết yếu, như hệ thống điện, nước sạch, trường học, trạm y tế tại các xã, đảo xa bờ được ưu tiên đầu tư, bảo đảm người dân vùng biển, đảo được tiếp cận dịch vụ công cơ bản như người dân khu vực đất liền. Hoạt động giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu được thực hiện thường xuyên, góp phần hình thành lối sống xanh, hài hòa với thiên nhiên.
Trên phương diện hội nhập và hợp tác quốc tế, tỉnh Quảng Ninh chủ động thiết lập và mở rộng quan hệ với các đối tác, tổ chức quốc tế trong các lĩnh vực quản lý biển, bảo tồn tài nguyên và phát triển du lịch bền vững. Các chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nuôi biển, khai thác năng lượng tái tạo ngoài khơi, kiểm soát ô nhiễm biển,… vừa giúp tỉnh tiếp cận tri thức và kinh nghiệm tiên tiến, vừa góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế biển địa phương trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.
Sự kết hợp đồng bộ giữa mục tiêu kinh tế, sinh thái và xã hội đã tạo nền tảng vững chắc cho tỉnh Quảng Ninh phát triển kinh tế biển theo hướng hiện đại, xanh và bền vững. Đây chính là minh chứng sinh động cho tính đúng đắn của các chủ trương, nghị quyết của Đảng khi được vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, đồng thời khẳng định vị thế tiên phong của tỉnh Quảng Ninh trong thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045./.
----------------------------------------
(1) Xem: Tiến Dũng: “Quảng Ninh: Tổng sản lượng hàng hóa qua các cảng đạt gần 150 triệu tấn năm 2024”, Thời báo Tài chính, ngày 12-1-2025, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/quang-ninh-tong-san-luong-hang-hoa-qua-cac-cang-dat-gan-150-trieu-tan-nam-2024-168505.html
(2) Xem: Hoàng Quỳnh: “Quảng Ninh hoàn thành chỉ tiêu đón 19 triệu lượt khách năm 2024”, Trang Thông tin điện tử Cục Du lịch quốc gia Việt Nam, ngày 16-12-2024, https://vietnamtourism.gov.vn/post/60178
(3) Xem: Cảnh Kỳ: “Xuất khẩu thủy sản cán đích 10 tỷ USD, nhưng...”, Báo Tiền phong điện tử, ngày 13-1-2025, https://tienphong.vn/xuat-khau-thuy-san-can-dich-10-ty-usd-nhung-post1707820.tpo
(4) Xem: Minh Đức: “Thanh tra tỉnh triển khai nhiệm vụ năm 2025”, Báo Quảng Ninh điện tử, ngày 30-12-2024, https://baoquangninh.vn/thanh-tra-tinh-trien-khai-nhiem-vu-nam-2025-3337153.html
Xây dựng “văn hóa sống xanh” trong cộng đồng dân cư Thủ đô: Nền tảng cho phát triển bền vững và ứng phó biến đổi khí hậu  (06/10/2025)
Phát huy vai trò trung tâm của Thủ đô Hà Nội trong bảo vệ môi trường sống bền vững: Từ chính sách đến hành động thực tiễn  (04/10/2025)
Quảng Ninh đẩy mạnh phát triển cảng biện và dịch vụ cảng biển  (04/10/2025)
Một số giải pháp thúc đẩy đô thị hóa bền vững tại tỉnh Quảng Ninh  (02/10/2025)
Bảo vệ môi trường để Thủ đô Hà Nội phát triển xanh và bền vững  (28/09/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Phụ nữ Việt Nam trong nền kinh tế số
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm