Cổ phần hoá nông, lâm trường quốc doanh và vấn đề quản lý, sử dụng đất đai

TS. Phạm Quốc Doanh Phó Trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp
21:46, ngày 17-02-2013

TCCSĐT - Thời gian qua, nông, lâm trường quốc doanh đã có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, trở thành nòng cốt phát triển một số ngành hàng nông, lâm sản quan trọng, tạo điều kiện để hình thành và phát triển vùng sản xuất nguyên liệu tập trung. Trong bối cảnh hiện nay, nông, lâm trường quốc doanh phải có bước đổi mới căn bản, sớm khắc phục những tồn tại, yếu kém trong gần 10 năm sắp xếp, đổi mới vừa qua, để thực sự là loại hình tổ chức sản xuất có hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hiện đại và sự nghiệp xây dựng nông thôn mới.

Từ những kết quả đạt được…

Thực hiện triển khai chủ trương thí điểm cổ phần hóa vườn cây, rừng trồng, đàn gia súc gắn với cổ phần hóa cơ sở chế biến theo Nghị quyết số 28/NQ-TW, ngày 16-6-2003 của Bộ Chính trị; Nghị định số 170/2004/NĐ-CP, ngày 22-9-2004 và Nghị định số 200/2004/NĐ-CP, ngày 3-12-2004 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới nông, lâm trường quốc doanh, đến nay trên phạm vi cả nước đã có 26 nông, lâm trường (công ty) thực hiện cổ phần hóa vườn cây, rừng trồng gắn với cổ phần hóa cơ sở chế biến. Nếu tính cả các công ty đã cổ phần hóa trước đó thì cả nước hiện có 32 đơn vị (công ty nông, lâm nghiệp hoặc nông, lâm trường quốc doanh) đã cổ phần hóa, thuộc các ngành nghề khác nhau của Trung ương và địa phương. Trong đó, phân theo ngành nghề sản xuất kinh doanh có: 12 đơn vị trồng và chế biến chè; 4 đơn vị trồng, chế biến cao su; 7 đơn vị chăn nuôi; 6 đơn vị trồng, chế biến rau quả và cây hàng năm; 2 đơn vị trồng rừng và chế biến lâm sản; 1 đơn vị giống nông, lâm nghiệp và 1 đơn vị nuôi trồng thủy sản. Theo phân cấp quản lý có 9 đơn vị thuộc địa phương quản lý và  23 đơn vị thuộc Trung ương quản lý.

Theo kết quả khảo sát và báo cáo của 32 công ty (nông, lâm trường quốc doanh) đã thực hiện cổ phần hóa, tuy còn có sự khác nhau về thời điểm triển khai, về ngành nghề sản xuất, kinh doanh, nhưng kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương thí điểm cổ phần hóa vườn cây, rừng trồng, đàn gia súc gắn với cổ phần hóa cơ sở chế biến, để tổng kết rút ra bài học và nhân rộng là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện bước đi thận trọng, phù hợp với đặc thù sản xuất, kinh doanh của công ty nông, lâm nghiệp, và việc cổ phần hóa nông, lâm trường quốc doanh phải gắn liền với việc quản lý, sử dụng đất. Thực hiện cổ phần hóa các nông, lâm trường đã đem lại những kết quả đáng mừng, không chỉ duy trì mà còn phát triển sản xuất tốt; năng suất cây trồng, vật nuôi đều tăng qua các năm; vốn nhà nước tại các doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển; hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng; quản trị doanh nghiệp từng bước thay đổi; lao động, việc làm và thu nhập tăng…, thể hiện qua các nội dung chính sau:

 Về hiệu quả sản xuất, kinh doanh so với trước khi cổ phần hóa: doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi tăng, đơn vị thua lỗ giảm, hiện  nay có 24 đơn vị có lãi (trước cổ phần hóa có 16 đơn vị), một số đơn vị khắc phục được tình trạng lỗ trước đó, thậm chí có đơn vị đã chuyển từ nguy cơ phá sản thành kinh doanh có lãi như Công ty cổ phần chè Chiềng Ve (Sơn La).

Doanh thu của các đơn vị năm sau cao hơn năm trước, nhiều đơn vị tăng gấp 2 lần - 3 lần, trong đó có 6 doanh nghiệp tăng doanh thu từ 3 lần - 5 lần (các công ty: Cao su Đồng Phú, Hòa Bình; Chè Than Uyên; Chè Hà Tĩnh; Chè Lâm Đồng; Xuất nhập khẩu Đồng Giao…) và 7 doanh nghiệp tăng doanh thu từ 2 lần - 3 lần (các công ty như Cao - su Phước Hòa, Tây Ninh, Bò sữa Mộc Châu, Chè Quân Chu, Chè Nghĩa Lộ, Xuất nhập khẩu Bắc Giang…).

Về lợi nhuận trước thuế, nhiều đơn vị tăng cao như các công ty: Cổ phần Chiềng Sung, Cờ Đỏ, Chè Hà Tĩnh, Sữa Mộc Châu, Bò sữa Lâm Đồng, Bò giống Miền Trung) tăng từ  2 lần - 3 lần; 4 doanh nghiệp (Công ty xuất nhập khẩu Đồng Giao, Công ty Cao-su Đồng Phú, Tây Ninh, Phước Hòa, Hòa Bình) tăng gấp đôi.

Cổ tức hàng năm khá ổn định, nhiều đơn vị có mức cổ tức cao. Các công ty cao-su giữ mức từ 25% - 30% năm; Công ty cổ phần Bò sữa Mộc Châu bình quân hàng năm từ 30% - 40 %, đặc biệt có đơn vị như Chè Than Uyên, mức cổ tức năm 2011 là 64%; các công ty còn lại tuy có mức cổ tức thấp hơn, nhưng năm sau cao hơn năm trước.

Về việc làm và thu nhập bình quân người lao động: Thu nhập của người lao động trong nhiều đơn vị tăng gấp 2 lần - 3 lần so với trước khi cổ phần hóa, như các công ty cao-su trước cổ phần hóa là 4,8 triệu/người/tháng, sau cổ phần hoá đạt 10,4 triệu/người /tháng. Công ty cổ phần Chè Lâm Đồng trước cổ phần hóa thu nhập bình quân 1,6 triệu đồng/người/tháng, sau cổ phần hóa đạt bình quân là 3,57 triệu đồng/người/tháng. Người lao động trong các doanh nghiệp được bố trí việc làm phù hợp hơn, ngành nghề được mở rộng, bảo đảm thu nhập ngày càng tăng, đời sống được quan tâm hơn, nhiều đơn vị đã tổ chức đào tạo lại tay nghề cho người lao động để phù hợp với công việc mới.

Mô hình tổ chức và quản trị doanh nghiệp ở các đơn vị sau cổ phần hóa đã chuyển biến một cách rõ rệt. Hầu hết các đơn vị đã tinh giản gọn nhẹ bộ máy quản lý, các chức danh về Đảng, công đoàn, thanh niên, phụ nữ đều đã được bố trí kiêm nhiệm; quản trị doanh nghiệp và điều hành sản xuất, kinh doanh linh hoạt và hiệu quả hơn.

… đến việc quản lý, sử dụng đất

Tại thời điểm cổ phần hóa, do nhiều lần đổi mới, sắp xếp, chuyển đổi và sau khi tiến hành rà soát lại quỹ đất đã được giao trước đây, đơn vị chỉ giữ lại diện tích cần cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, quản lý sử dụng có hiệu quả, nên bình quân một đơn vị quản lý 2.668 ha (giảm so với khi thành lập gần 1.000 ha, chủ yếu bàn giao về cho địa phương) đơn vị có diện tích lớn nhất là 23.760 ha, đơn vị có diện tích nhỏ nhất là 209 ha. Diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khoảng 58,65% so với tổng số; diện tích đã ký hợp đồng thuê đất với địa phương khoảng 13% so với tổng số. Tại thời điểm này, việc quản lý, sử dụng đất đang tồn tại dưới các hình thức sau:

- Giao khoán đất ổn định lâu dài cho người lao động theo Nghị định 01/CP ngày 4-01-1995 của Chính phủ: đơn vị quản lý đất đai, quy trình kỹ thuật, sản phẩm, dịch vụ vật tư, kỹ thuật cho người nhận khoán; người nhận giao khoán tự chủ sản xuất, lo đầu ra cho sản phẩm và thanh toán các khoản dịch vụ, quản lý phí cho đơn vị, toàn bộ sản phẩm vượt khoán được hưởng. Tổng diện tích đang áp dụng hình thức này khoảng 23.762 ha tại các công ty như: Thủy sản Trịnh Môn, Xuất nhập khẩu Đồng Giao, Bò thịt sữa Yên Phú, Chè Cờ Đỏ, Bò sữa Mộc Châu, Sữa Đà Lạt, Chè Hà Tĩnh, Chè Liên Sơn, Chiềng Ve, Chế biến thực phẩm xuất khẩu Kiên Giang…

- Một hình thức khác là, cũng thực hiện giao khoán đất cho người lao động nhưng đơn vị không quản lý đất đai, quy trình kỹ thuật, sản phẩm, dẫn đến tình trạng khoán trắng. Tổng diện tích đối với hình thức này là 15.538,5 ha, tại các công ty: Gà Giống Ba Vì, Gà Giống Đông Triều, Xuất nhập khẩu nông lâm sản chế biến, Chè Quân Chu, Chè Nghĩa Lộ, Chè Trần Phú, Chè Bắc Sơn, Chè Long Phú, Xuất nhập khẩu Bắc Giang, Nông lâm sản Hà Tĩnh.

- Thí điểm bán vườn cây cho người nhận khoán theo Nghị định số 12-CP ngày 2-3-1993 của Chính phủ. Theo hình thức này có 274 ha, tại các công ty: Chè Chiềng Ve, Chè Quân Chu.

Sau khi cổ phần hóa, các đơn vị tiếp tục rà soát lại đất đai, đẩy nhanh tiến độ cắm mốc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển sang thuê đất, đồng thời chấn chỉnh, bổ sung, hoàn thiện lại cách thức tổ chức sản xuất, quản lý sử dụng đất. Đến cuối năm 2011, diện tích bình quân một công ty còn quản lý sử dụng là 2.276,36 ha (giảm gần 400 ha so với thời điểm bắt đầu cổ phần hoá, chủ yếu tiếp tục bàn giao về cho địa phương), trong đó, đơn vị có diện tích lớn nhất là 18.377 ha, đơn vị có diện tích nhỏ nhất là 201 ha. Diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt 65,5%, diện tích ký hợp đồng thuê đất với các địa phương đạt 65,2%.

 Đồng thời với việc cổ phần hóa, nhiều đơn vị đã có nhiều giải pháp để quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả phần đất được xác định giữ lại. Nhưng do những tồn tại trong hiện trạng quản lý, sử dụng đất, nhất là hình thức giao khoán đất cho người lao động của các đơn vị trong thời kỳ trước đó, nên việc quản lý, sử dụng đất ở các đơn vị vẫn đang tồn tại các hình thức quản lý, sử dụng sau:

- Quản lý, sử dụng đất đai gắn với quản lý vườn cây, đồng cỏ đang trong quá trình tiến hành đo đạc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để chuyển sang thuê đất; một số hợp đồng giao khoán đối với diện tích nhận khoán theo Nghị định số 01/NĐ-CP đang được rà soát để điều chỉnh hợp đồng khoán theo Nghị định 135/NĐ-CP. Hiện có 16 đơn vị thuộc nhóm này.

- Chỉ quản lý một phần nhỏ diện tích đất đai (sau cổ phần hóa, phần đất dự kiến hoặc đã bàn giao lại cho địa phương là diện tích đất đã giao khoán cho người lao động, không quản lý được). Có 3 đơn vị thuộc nhóm này, gồm: Công ty cổ phần Gà giống Ba Vì (Tổng công ty Chăn nuôi), Công ty cổ phần xuất nhập khẩu nông, lâm sản chế biến (Tổng công ty Rau quả - Nông sản), Công ty cổ phần giống nông, lâm nghiệp Quảng Nam (Quảng Nam).

Đối với diện tích đất ở của cán bộ, công nhân viên do nông, lâm trường cấp trước đây hoặc đất làm các công trình công cộng đã được bàn giao về cho chính quyền địa phương quản lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tình trạng tranh chấp, xâm lấn, cho thuê, cho mượn, khoán trắng, khoán không đúng đối tượng vẫn tồn tại, chưa được xử lý dứt điểm.

Và một số đề xuất

Với cách làm thận trọng, bước đi phù hợp, những kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương thí điểm cổ phần hóa vườn cây, rừng trồng, đàn gia súc gắn với cổ phần hóa cơ sở chế biến là hoàn toàn đúng đắn, cần tổng kết và mở rộng. Tuy nhiên, đất đai trong các công ty nông, lâm nghiệp (nông, lâm trường) là tài sản đặc biệt và quan trọng, nên Nhà nước cần thống nhất quản lý. Việc cho các công ty cổ phần thuê để quản lý, sử dụng phải theo quy hoạch, kế hoạch của địa phương, của ngành và sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Các công ty cổ phần có trách nhiệm tổ chức sản xuất, giao khoán đất, bảo đảm cho người lao động nâng cao hiệu quả sử dụng đất, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả ; khẩn trương hoàn thành việc cắm mốc, xác định ranh giới ngoài thực địa, đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký hợp đồng thuê đất.

Rà soát, bổ sung, hoàn thiện việc giao khoán đất, vườn cây, rừng trồng tại các công ty nông, lâm nghiệp. Đối với đơn vị đang thực hiện tốt việc giao khoán đất theo Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 4-1-1995 thì tiếp tục rà soát, điều chỉnh hợp đồng khoán theo Nghị định số 135/2005/NĐ-CP của Chính phủ. Rà soát lại các hợp đồng khoán đã chuyển nhượng, nếu vẫn tiếp tục sản xuất nông nghiệp thì công ty ký lại hợp đồng khoán với người nhận chuyển nhượng, nếu không, phải kiên quyết thu hồi. Đối với diện tích đất chưa khoán phải tổ chức áp dụng các hình thức khoán theo Nghị định số 135/2005/NĐ-CP của Chính phủ. Người nhận khoán phải sử dụng đất theo quy hoạch của công ty.

Đối với diện tích đất khi công ty thực hiện cổ phần hóa không gắn cổ phần hóa vườn cây, rừng trồng với cơ sở chế biến đã giao khoán cho người nhận khoán nhưng không quản lý điều hành được thì chuyển giao về cho địa phương quản lý theo trình tự thủ tục quy định của pháp luật về đất đai. Nếu người nhận giao khoán đất là nông dân trên địa bàn của công ty thì được xem xét để giao đất (trong hạn mức) và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đối với người nhận giao khoán đất không phải là nông dân thì chuyển sang cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đối với diện tích đất được giao khoán đất theo Nghị định số 01/NĐ-CP nhưng chỉ thu phí quản lý, khấu hao vườn cây (khoán trắng) thì phải làm thủ tục chuyển giao đất về cho chính quyền địa phương quản lý, sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch của địa phương. Người nhận khoán nếu là nông dân sống trên địa bàn thì được giao đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; những đối tượng còn lại phải chuyển sang thuê đất./.