Những luận điểm sáng tạo của đồng chí Lê Duẩn về công tác tư tưởng
Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, từ khi tham gia Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đến khi là Bí thư thứ nhất, Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Lê Duẩn luôn coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp làm công tác tư tưởng, lý luận. Với phong cách tư duy sắc sảo, khoa học, đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa giáo điều, bệnh rập khuôn, máy móc..., đồng chí Lê Duẩn đã luôn suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào công tác tư tưởng cho phù hợp với điều kiện lịch sử và những nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong từng giai đoạn cụ thể. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn trên mặt trận này đã để lại cho chúng ta những bài học quý báu.
1 - Thống nhất biện chứng giữa lý trí và tình cảm, giữa xây và chống, giữa sự hướng dẫn và sự tự nguyện - quy luật riêng của tư tưởng và công tác tư tưởng
Điều này được thể hiện rất rõ trong tư duy lý luận của đồng chí Lê Duẩn: "Tự nhiên có quy luật riêng của tự nhiên, xã hội có quy luật riêng của xã hội, tư tưởng có quy luật riêng của tư tưởng. Tư tưởng có quy luật riêng, cho nên khi làm cách mạng tư tưởng và văn hóa phải nắm và vận dụng cho được những quy luật riêng của tư tưởng. Sở dĩ tư tưởng có quy luật riêng là vì tuy tư tưởng là một sản phẩm của tồn tại, của điều kiện kinh tế, nhưng nó lại có khả năng chủ động, có tính độc lập tương đối, và tác động trở lại tồn tại và điều kiện kinh tế"(1).
Theo đồng chí Lê Duẩn, toàn bộ tư tưởng của con người hợp thành vũ trụ quan và nhân sinh quan. Vấn đề nhân sinh quan là vấn đề lý trí, đồng thời là vấn đề tình cảm. Như vậy, quy luật của tư tưởng chính là sự thống nhất biện chứng giữa lý trí và tình cảm. Lý trí và tình cảm là hai phạm trù triết học, đồng thời là hai thuộc tính thiêng liêng của con người. Thông qua chính trị, triết học, đạo đức học, văn học, nghệ thuật..., con người xây dựng nhân cách tinh thần và nhân cách sáng tạo của mình. Tình cảm là khởi nguồn của lý trí; từ tình cảm mà khơi dậy lý trí. Ngược lại, từ lý trí mà phát sinh tình cảm, làm cho tình cảm có sẵn trở nên sâu sắc hơn.
Nhìn nhận con người trên cả hai phương diện lý trí và tình cảm không phải là điều mới mẻ. Điều này đã được nhiều nhà triết học, tư tưởng, tâm lý học... đề cập đến. Tuy nhiên, nhận thức nó như một quy luật, một sự tất yếu để vận dụng nó vào công tác tư tưởng thì đó thực sự là một tư duy sáng tạo của Lê Duẩn. Đồng chí nói: "Cách mạng tư tưởng là việc làm lâu dài, phải gắn tình cảm với lý trí, làm cho lý trí và tình cảm hết sức nhất trí với nhau. Để hiểu một sự việc gì thì con người phải dùng lý lẽ, lý trí, nhưng khi hành động thì phải có tình cảm; lý trí giúp cho con người có tình cảm đúng, ngược lại tình cảm có dồi dào thì lý trí mới vững. Công tác tư tưởng không phải chỉ nắm lý luận không thôi, mà phải biết gắn tình cảm với lý luận... Thường thường, triết học giải quyết về lý trí, nghệ thuật xây dựng tình cảm, cả hai đều phải nhất trí với nhau thì mới giải quyết được vấn đề tư tưởng."(2), "Làm cách mạng tư tưởng và văn hóa chính là vận dụng những mặt hoạt động đó"(3).
Trên cơ sở nhận thức quy luật này của tư tưởng, đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ đặc thù của phương thức hoạt động công tác tư tưởng là: "Không dùng bạo lực, hành chính, mà là dựa vào tự nguyện". Vậy, hiểu luận điểm này như thế nào? Ở đây cần nhắc đến một quan điểm của chủ nghĩa Mác mà đồng chí Lê Duẩn thường viện dẫn: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng tiến hành cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ trên cơ sở đã có sự nhận thức rõ với một ý chí, niềm tin và tình cảm sâu sắc, từ đó tự nguyện, tự giác hoạt động tích cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nếu chỉ hiểu biết đường lối, chính sách nhưng không có niềm tin, tình cảm, thì sẽ không có tự nguyện. Thực tế đã cho thấy, bất cứ một chủ trương, chính sách nào được đưa ra mà không có sự tuyên truyền, hướng dẫn cụ thể, không được quần chúng đồng tình, ủng hộ thì những chủ trương, chính sách đó không thể đi vào cuộc sống và sẽ thất bại. Tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hành động thực tiễn của quần chúng, biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội. Như vậy, luận điểm dựa vào sự tự nguyện chính là sự kết hợp hài hòa giữa lý trí và tình cảm trong mỗi con người. Đó cũng chính là sự kết hợp biện chứng giữa ba hình thái của công tác tư tưởng là công tác lý luận, công tác tuyên truyền, công tác cổ động. Nếu công tác lý luận là cơ sở, nền tảng của công tác tư tưởng thì tuyên truyền, cổ động là hoạt động nhằm xây dựng nhận thức mới, hình thành niềm tin mới và bồi dưỡng ý chí mới trong quần chúng, tác động vào nhận thức và tình cảm của quần chúng, cổ vũ họ đi tới hành động trực tiếp, tự nguyện thực hiện những chủ trương, chính sách và nhiệm vụ cách mạng đề ra. Có như vậy, lý luận mới không phải là lý luận suông, lý luận chết do không phục vụ được thực tiễn, như đồng chí Lê Duẩn đã nói: "Công tác tư tưởng không phải chỉ nắm lý luận không thôi, mà phải biết gắn tình cảm với lý luận"(4), "Chính sách không phải cái gì khác hơn là đường lối, chủ trương để thực hiện những nhiệm vụ cách mạng, là những yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội, chính sách là lý trí. Nhưng muốn thực hiện được chính sách, tức lý trí đó, thì phải có tình cảm....; có những lý trí đúng mà tình cảm sai thì cuối cùng lý trí cũng sai"(5). "Lập trường, lý lẽ phải dính tới tình cảm; xây dựng lập trường, quan điểm mới phải đi đôi với xây dựng tình cảm mới"(6).
Trên cơ sở quy luật của tư tưởng gắn lý trí với tình cảm, dựa vào sự tự nguyện, đồng chí cũng chỉ rõ: "Quy luật của cách mạng tư tưởng là quy luật phê bình và tự phê bình, phá cái gì, xây cái gì, hai mặt xây và phá dính liền với nhau; xây cái mới, phá cái lỗi thời"(7). Để thực hiện tốt giữa xây và chống, đồng chí yêu cầu phải bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích riêng với lợi ích chung: "Người ta làm việc gì nhằm đem lại lợi ích chung, thì đồng thời cũng có phần riêng của người ta trong đó; khi người ta hy sinh cho sự nghiệp chung thì trong đó cũng có phần vì quyền lợi riêng của bản thân người ta nữa. Đã là một người thì phải có cái riêng của con người không thể có một con người siêu hình"(8). Chú trọng đến lợi ích riêng, nhìn nhận sự thống nhất biện chứng giữa quyền lợi riêng với quyền lợi chung ở thời điểm đó đã làm nổi bật tư duy sáng tạo của đồng chí Lê Duẩn.
Có thể khẳng định rằng, những luận điểm về tính quy luật của tư tưởng và công tác tư tưởng của đồng chí Lê Duẩn nêu trên có giá trị rất lớn đối với công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay.
Quy luật thống nhất giữa lý trí và tình cảm yêu cầu phải đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tuyên truyền lý luận; gắn kết xây dựng thế giới quan với nhân sinh quan, bồi đắp trí tuệ, tâm hồn con người, lấy sự tôn trọng và thương yêu làm nền tảng. Chỉ có trên cơ sở lý luận đúng đắn mới giúp người ta tin, từ đó mới nảy sinh tình cảm, như V.I. Lê-nin nói: Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng. Những năm vừa qua, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đã được coi trọng và đẩy mạnh hơn, đã làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận do thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra, góp phần hình thành đường lối đổi mới đất nước, nâng cao trình độ lý luận chung cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuy nhiên, văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới, chưa đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân. Tính định hướng, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa cao; thiếu chủ động và sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hòa bình", chống tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch, bác bỏ các quan điểm sai trái... Chính vì thế, cần tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế; về Đảng cầm quyền và công tác xây dựng Đảng; về xây dựng con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam trong thời đại mới... Nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn, mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận đòi hỏi tầm trí tuệ và khát vọng chấn hưng đất nước.
Chỉ trên cơ sở có một lý luận đúng thì mới "dẫn đường" cho phong trào cách mạng, mới không làm cho người ta hoài nghi, băn khoăn, từ đó mới trở thành niềm tin, tình cảm để tự nguyện hành động đưa lý luận trở thành hiện thực cuộc sống. Để làm được điều này, những người làm công tác tư tưởng cần không ngừng học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn; tăng cường bám sát thực tiễn, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm cao trước dân, trước Đảng trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để rút ra được các luận điểm phản ánh bản chất và các quy luật vận động, phát triển của đời sống xã hội; kịp thời phát hiện các nhân tố mới, sáng kiến hay, cách làm giỏi, đúc kết, khái quát thành lý luận, góp phần phát triển và hoàn thiện đường lối đổi mới.
Có được lý luận đúng đắn chưa đủ, vấn đề quan trọng là làm sao đưa lý luận quay trở lại phục vụ cuộc sống. Đó là nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu, tuyên truyền, quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây chính là quá trình gắn lý trí với tình cảm như đồng chí Lê Duẩn đã nói.
Một trong những vấn đề đáng băn khoăn, suy nghĩ là, việc nghiên cứu, quán triệt nghị quyết của Đảng thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều nơi vẫn tiến hành với hình thức độc thoại một chiều, mang tính áp đặt, nghị quyết chưa đến được với người dân. Như vậy, có nghĩa là chưa gắn lý trí với tình cảm. Phải làm sao cho mọi đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước chiếm lĩnh được con tim, khối óc của quần chúng và trở thành hiện thực sinh động. Muốn làm được điều đó, công tác tư tưởng nói chung, công tác tuyên truyền, quán triệt nghị quyết cần phải gắn với từng đối tượng cụ thể, có nghĩa là lấy việc phản ánh thỏa đáng nhu cầu, lợi ích, tư tưởng, tình cảm... của từng đối tượng làm nội dung, lấy việc thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng hợp lý của đối tượng làm mục đích. Đổi mới việc biên soạn các tài liệu hướng dẫn, nghiên cứu, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tài liệu học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng tinh giản, dễ hiểu, phổ cập, gắn với thực tiễn; tăng cường đối thoại, hạn chế độc thoại. Tuyên truyền không chỉ bằng tài liệu, sách vở mà cần đa dạng hóa, trong đó đặc biệt chú trọng sử dụng các thành tựu công nghệ thông tin, thông qua văn học, nghệ thuật... Muốn công tác tư tưởng có sức thuyết phục cao, dễ thẩm thấu, đi vào lòng người, có sức lay động, thức tỉnh, cảm hóa, cổ vũ mọi người tự giác thực hiện những chủ trương, chính sách, điều quyết định vẫn là cái tầm và cái tâm của người cán bộ tuyên truyền. Sự hời hợt và cẩu thả, sự tắc trách và thái độ vô cảm là những điều cấm kỵ trong công tác tư tưởng, nó trái với những lời căn dặn của Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Trong xã hội bên cạnh cái tốt, cái đẹp, luôn tồn tại cái xấu, cái ác. Trong tình hình hiện nay công tác tư tưởng cần đặc biệt chú ý đến phát hiện, cổ vũ, bồi dưỡng, phổ biến những điển hình tiên tiến, những gương người tốt việc tốt, nhân phong trào quần chúng từ một hiện tượng đơn nhất, mang tính địa phương thành hiện tượng có tính phổ biến, trên quy mô cả nước. Đồng thời phải kiên quyết lên án, đả phá sự giả dối, phi nhân tính, làm tổn hại đến lợi ích, đến nhận thức và tình cảm con người, phương hại đến lợi ích quốc gia. Lấy chính khí để thắng tà khí, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, đó chính là mục tiêu đột phá của công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay.
2 - Coi trọng tính lịch sử cụ thể, nắm vững đối tượng, gắn với thực tiễn trong công tác tư tưởng
Chủ nghĩa Mác khẳng định: Bất kỳ chân lý nào cũng gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể. V.I. Lê-nin nói: Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong mỗi thời điểm cụ thể nhất định. Nắm vững nguyên tắc này, đồng chí Lê Duẩn yêu cầu những người làm cách mạng phải luôn phát huy trí sáng tạo: "Cách mạng là sáng tạo, không sáng tạo thì cách mạng không thể thắng lợi. Xưa nay không và sẽ không bao giờ có một công thức duy nhất về cách tiến hành cách mạng thích hợp với mọi hoàn cảnh, mọi thời gian. Một phương thức nào đó thích hợp với nước này lại có thể không dùng được ở nước khác; đúng trong thời kỳ này, hoàn cảnh này, song sẽ là sai nếu đem áp dụng máy móc vào thời kỳ khác, hoàn cảnh khác. Tất cả vấn đề này là tùy thuộc ở những điều kiện lịch sử cụ thể"(9).
Chính vì thế, "Làm cách mạng tư tưởng phải phục vụ đúng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng", "Nội dung tư tưởng thì không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà do nội dung cách mạng của từng thời kỳ quy định"(10). Có thể nói, luận điểm về tính lịch sử cụ thể của đồng chí Lê Duẩn là một trong những nguyên tắc rất cơ bản của công tác tư tưởng, đó là nguyên tắc tính khoa học. Tính khoa học đòi hỏi phải phân tích các hiện tượng và quá trình tư tưởng diễn ra trong đời sống xã hội một cách toàn diện trong sự vận động và biến đổi, trong mối liên hệ với nhau, trong một thời gian và không gian cụ thể. "Tư tưởng phải phục tùng quy luật khách quan của lịch sử xã hội, những quy luật kinh tế nhất định, đồng thời nó lại phải chủ động. Hai cái đó không mâu thuẫn mà thống nhất với nhau. Sự phát triển lịch sử là kết quả của sự thống nhất biện chứng của những nhân tố khách quan và chủ quan"(11).
Mục tiêu cơ bản của công tác tư tưởng đồng thời cũng là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là đào tạo, bồi dưỡng, hình thành những thế hệ con người Việt Nam mới; có thể lực cường tráng, có trí tuệ cao, có kỹ năng lao động, có lòng nhân ái..."Giáo dục và đào luyện những con người như thế là nhiệm vụ và nội dung của cách mạng tư tưởng và văn hóa"(12).
Trên cơ sở luận điểm về tính lịch sử cụ thể, đồng chí Lê Duẩn đã nêu lên một phương pháp giáo dục con người có ý nghĩa triết học văn hóa, đó là: "Con người bao giờ cũng là một sản phẩm lịch sử, là con đẻ của một xã hội nhất định. Cho nên, muốn đào tạo được những con người mới Việt Nam, chúng ta phải hiểu được những yêu cầu đối với con người trong xã hội mới, đồng thời phải hiểu rõ con người Việt Nam trong quá khứ"(13). Tồn tại trong cộng đồng - giai cấp, dân tộc và nhân loại, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Bởi vậy, không thể có con người trừu tượng, con người tách khỏi mối quan hệ giữa con người với con người, cũng như với tự nhiên. Nhận thức rõ tính tất yếu này để vận dụng vào công tác tư tưởng là một tư duy sáng tạo của đồng chí Lê Duẩn, có ý nghĩa như một phương châm công tác tư tưởng trong mọi thời kỳ. Đồng chí Lê Duẩn luôn trăn trở làm thế nào để xây dựng được con người mới với những tố chất đẹp đẽ và nối tiếp được truyền thống của ông cha. Đồng chí căn dặn các nhà sư phạm: "Thày giáo muốn dạy học tốt phải hiểu con người một cách sâu sắc. Hơn nữa, thày giáo phải hiểu rõ hơn ai hết con người Việt Nam, lịch sử Việt Nam với tất cả truyền thống vẻ vang của dân tộc. Phải xuất phát từ những tư tưởng, tình cảm của thời đại và những vốn đã có của dân tộc và trên cơ sở ấy mà xây dựng tri thức, tình cảm cho học sinh phù hợp với giai đoạn mới của lịch sử"(14). Đồng chí cũng căn dặn những người làm công tác tư tưởng: "Phải hiểu người Việt Nam như thế nào, thì khi làm cách mạng tư tưởng, chúng ta mới nắm vững đối tượng, mới nắm được nội dung, mới cải tạo được tư tưởng. Cho nên, phải đi sâu hơn nữa, phải đọc lịch sử Việt Nam để hiểu cho rõ con người Việt Nam"(15). Hiểu rõ con người Việt Nam, lịch sử Việt Nam cũng chính là phải hiểu cả đặc điểm dân tộc, địa phương, trạng thái ý thức xã hội, thực trạng tâm lý, tư tưởng, tình cảm... của từng nhóm xã hội, từng người để xác định, lựa chọn phương thức công tác tư tưởng phù hợp. Trong bối cảnh cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội đang chuyển đổi, luận điểm của đồng chí Lê Duẩn nhắc nhở những người làm công tác tư tưởng phải khắc phục bệnh chung chung, đại khái. Phải đi sâu, đi sát, đánh giá đúng đặc điểm, nhu cầu của các giai tầng xã hội, các ngành, giới để lựa chọn chính xác nội dung và các giải pháp tư tưởng hiệu quả, nhất là đối với thế hệ trẻ, với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Luận điểm tính lịch sử cụ thể của đồng chí Lê Duẩn cũng đòi hỏi chúng ta phải xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của công tác tư tưởng trong mỗi giai đoạn cách mạng cũng như ở từng thời điểm cụ thể. Mục tiêu của công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay là tạo ra sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, khơi dậy mọi nội lực của đất nước, đồng thời tranh thủ cao độ hiệu quả của hội nhập kinh tế để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi công tác tư tưởng phải đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động với những chương trình cụ thể. Một là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức nghiên cứu, quán triệt tuyên truyền các văn kiện của Đảng và học tập lý luận chính trị. Ba là, đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản. Bốn là, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm là, nghiên cứu, đề xuất các quan điểm, phương thức, biện pháp mới nhằm giữ vững và củng cố trận địa an ninh tư tưởng, an ninh văn hóa, an ninh thông tin trong tình hình mới. Sáu là, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Tuyên giáo các cấp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X). Bảy là, mở rộng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.
Trước mắt cần thực hiện tốt việc tuyên truyền tạo sự thống nhất cao về những cơ hội, thuận lợi cũng như những khó khăn, thách thức đặt ra đối với nước ta khi đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới, từ đó phát huy tính chủ động, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, quyết tâm tận dụng những thời cơ, khắc phục những khó khăn để phát triển nhanh, bền vững. Tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo chuyển biến căn bản về đạo đức, lối sống trong Đảng và toàn xã hội.
* GS, TS, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
(1) Lê Duẩn: Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1977, tr 53
(2), (3), (4), (5), (6), (7) Lê Duẩn: Sđd, tr 54, 57, 56, 57, 58, 54
(8) Lê Duẩn: Sđd, tr 56
(9) Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr 34
(10) Lê Duẩn: Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1977, tr 19
(11) Lê Duẩn: Sđd, tr 21, 22
(12) Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr 90
(13) Lê Duẩn: Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr 224
(14) Lê Duẩn: Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1977, tr 80
(15) Lê Duẩn: Sđd, tr 59
Cuộc vận động lớn về đạo đức  (03/04/2007)
Cuộc vận động lớn về đạo đức  (03/04/2007)
Lê Duẩn - Một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam  (03/04/2007)
Đồng chí Lê Duẩn với việc giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên  (03/04/2007)
Những cống hiến của đồng chí Lê Duẩn trên lĩnh vực đối ngoại  (03/04/2007)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển