Phản bác luận điệu “Việt Nam không có tự do tôn giáo”

PGS, TS Văn Đức Giao
Thượng tá, Trường Đại học An ninh nhân dân
21:43, ngày 15-11-2023

TCCS - Các thế lực thù địch thường xuyên rêu rao, tuyên truyền luận điệu xuyên tạc rằng, “Việt Nam không có tự do tôn giáo” (?!) bằng những thủ đoạn giảo trá, tinh vi hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Vì vậy, việc làm rõ cơ sở khoa học, pháp lý và thực tiễn để phản bác, bẻ gãy những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về tôn giáo là rất cần thiết.

Trong những năm qua, các báo cáo nhân quyền, tôn giáo quốc tế của một số nước phương Tây thường xuyên có nội dung xuyên tạc, vu cáo “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo” (?!). Những luận điệu vu cáo và đánh giá thiếu khách quan ít nhiều khiến một bộ phận công chúng trong và ngoài nước hiểu chưa đúng về chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, tạo “cớ” để những tổ chức, cá nhân thù địch lợi dụng nhằm chống phá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Các thế lực thù địch, đối tượng chống đối cả trong và ngoài nước, nhất là phần tử cực đoan trong một số tôn giáo, sử dụng nhiều phương tiện, cách thức, thủ đoạn, như: sử dụng internet, lợi dụng hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế, lồng ghép trong các sinh hoạt tôn giáo… để một mặt ra sức tán dương “tự do tôn giáo” ở các nước phương Tây, mặt khác lại trắng trợn vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền” (?!), đòi “hoạt động tôn giáo không cần sự quản lý của Nhà nước” (?!)... Những luận điệu trên hoàn toàn xa lạ với thực tiễn đời sống tôn giáo đa dạng, phong phú, tự do tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ tại Việt Nam. Chúng ta có đầy đủ cơ sở khoa học, pháp lý, thực tiễn để phản bác các luận điệu xuyên tạc này.

Thứ nhất, về phương diện nhận thức luận khoa học, “tôn giáo là hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào đức tin, sự sùng bái thượng đế và đức thánh thần linh thiêng được tổ chức tương đối quy củ, có địa điểm biểu trưng, các ngày lễ, kinh bổn, nghi thức và một lớp chức sắc chuyên trách của tôn giáo”(1). Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”(2). Như vậy, ngoài những vấn đề thuộc về tín ngưỡng (niềm tin, sự sùng bái lực lượng siêu nhiên), tôn giáo còn là một thực thể xã hội, một tổ chức có tính vật chất của một cộng đồng; tôn giáo thuộc phạm trù hoạt động thực tiễn. Vì thế, hoạt động tôn giáo ở quốc gia nào thì phải chịu sự quản lý của quốc gia đó.

Theo đó, khi chưa được cơ quan nhà nước công nhận cũng có nghĩa là tổ chức tôn giáo đó chưa có tư cách pháp nhân. Khi đã có tư cách pháp nhân, tổ chức tôn giáo hoạt động phải tuân thủ các quy định pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của mình. Mặt khác, hoạt động tôn giáo không chỉ nhằm giải quyết nhu cầu tinh thần của một bộ phận chức sắc, tín đồ, mà còn liên quan đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chẳng hạn, việc xây dựng cơ sở thờ tự không chỉ đơn thuần là củng cố, phát triển cơ sở vật chất của giáo hội, mà còn liên quan đến quy định của nhà nước về đất đai, quy hoạch, xây dựng; hoạt động in ấn kinh sách, sản xuất đồ dùng việc đạo liên quan quy định về văn hóa, xuất bản; mối quan hệ tôn giáo trong - ngoài liên quan đến chính sách, pháp luật trên lĩnh vực đối ngoại, xuất cảnh, nhập cảnh; hoạt động đào tạo chức sắc liên quan pháp luật về giáo dục; hoạt động thiện nguyện tôn giáo liên quan đến thực hiện các chính sách an sinh xã hội… Vì thế, tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở nước ta cũng phải tuân thủ pháp luật, giống như bất kỳ quốc gia nào khác. Không thể lợi dụng vấn đề “nhân quyền” để đứng cao hơn chủ quyền quốc gia. Mọi công dân, trong đó có các chức sắc, nhà tu hành và các tín đồ tôn giáo phải có trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.

Thứ hai, về cơ sở pháp lý, luật pháp quốc tế và của nhiều quốc gia trên thế giới đều quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền cơ bản của công dân, nhưng vẫn phải chịu sự điều chỉnh của nhà nước. Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16-12-1966, ghi rõ: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo”, đồng thời cũng khẳng định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”(3)... Như vậy, tự do đích thực là phải làm đúng theo cái tất yếu, tức là những điều đã được luật pháp quy định.

Ở nước ta, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, thể hiện qua việc ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo. Với việc tuyên bố: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”, Điều 10, Hiến pháp năm 1946 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo trên phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1959, Điều 26 quy định rõ hơn: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 đều quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Hiến pháp năm 2013, Điều 24 tiếp tục khẳng định rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Những nguyên tắc cơ bản đối với tôn giáo trong Hiến pháp được Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp luật, như: Ngày 14-6-955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh 234/SL, về chính sách đối với tôn giáo; ngày 11-11-1977, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297/NQ-CP, về một số chính sách tôn giáo; ngày 20-3-1991, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chỉnh phủ) ra Nghị định số 69/NĐ-HĐBT, về hoạt động tôn giáo; ngày 19-4-1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, về các hoạt động tôn giáo.

Trẻ em vui chơi ở xứ Sở Kiện ở thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam_Ảnh: Tư liệu

Đặc biệt, Nghị quyết 25/NQ-TW, ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, về công tác tôn giáo, khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(4). Trên cơ sở nghị quyết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo; Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo; Nghị định 92/2012/NĐ-CP, Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo.

Ngày 18-11-2016, Quốc hội khóa XIV ban hành Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; ngày 30-12-2017, Chính phủ ra Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo. Theo đó, hiện nay, Nhà nước Việt Nam xác định rõ quyền, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong các hoạt động tôn giáo, như: Quy định về đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, đăng ký hoạt động tôn giáo (Điều 16 đến Điều 20, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo); quy định về tổ chức tôn giáo (Điều 21 đến Điều 31); quy định về phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử và thuyên chuyển, cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành (Điều 32 đến Điều 36); quy định về cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng tôn giáo (Điều 37 đến Điều 42); quy định về các hoạt động tôn giáo thường xuyên (Điều 43 - 46); quy định về hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài (Điều 47 đến Điều 53); quy định về hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, từ thiện xã hội của tổ chức tôn giáo (Điều 54 đến Điều 55)(5). Mọi hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi ngược lợi ích của Tổ quốc, dân tộc, gây phương hại an ninh, trật tự, trục lợi đều bị nghiêm cấm. Pháp luật về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trở thành bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bên cạnh quy định của các nhà nước và tổ chức quốc tế về tôn giáo thì giáo lý, giáo luật của nhiều tôn giáo cũng nêu rõ vai trò của nhà nước và pháp luật đối với cộng đồng và khẳng định trách nhiệm tuân thủ pháp luật của mỗi tín đồ với vai trò công dân. Từ những quan điểm, chính sách và hệ thống các văn bản pháp luật trên, có thể khẳng định, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được Đảng, Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo hộ. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là để bảo vệ và bảo đảm cho sự phát triển hợp pháp, phù hợp lợi ích quốc gia - dân tộc của tôn giáo. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ được Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định, được pháp luật thừa nhận và thực thi trong thực tế, mà còn có sự tương thích, phù hợp với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo luật pháp và thông lệ quốc tế.

Thứ ba, trên phương diện thực tiễn, chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Những năm qua, các tôn giáo ở nước ta phát triển nhanh về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự, mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức, cá nhân tôn giáo, đồng đạo ở nước ngoài; mọi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đều được chính quyền tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo ngày càng được nâng cao.

Trên thực tế, các tôn giáo có điều kiện phát triển vượt bậc. Nếu năm 2003, cả nước có 15 tổ chức thuộc 6 tôn giáo, 17 triệu tín đồ, với khoảng 20.000 cơ sở thờ tự, 34.000 chức sắc, 78.000 chức việc; thì đến năm 2021, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với trên 26 triệu tín đồ, 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc, 29.000 cơ sở thờ tự(6). Cơ sở đào tạo của tôn giáo so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần, lên đến hơn 60 cơ sở, với 17 trường đào tạo trình độ đại học. Trước đây, hoạt động in ấn, xuất bản kinh sách tôn giáo của các tôn giáo hạn chế, thì đến nay, đã có khoảng 4.000 đầu sách được xuất bản với hàng chục triệu bản in; có 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động, in trên các ngôn ngữ khác nhau, như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng dân tộc thiểu số… Năm 2009, Nhà nước cho phép và hỗ trợ Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI tại Thành phố Hồ Chí Minh, với hơn 2.000 ni sư từ hơn 47 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới tham dự sự kiện này. Năm 2011, Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đồng tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm đạo Tin Lành có mặt tại Việt Nam, buổi lễ được tổ chức tại Đà Nẵng thu hút khoảng 20.000 người tham dự. Năm 2012, tại Tòa Giám mục Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Hội nghị toàn thể Liên Hội đồng Giám mục châu Á lần thứ X khai mạc, với hơn 200 giám mục trên khắp thế giới về dự. Năm 2017, nhân dịp kỷ niệm 500 năm Tin Lành cải cách, tại Hà Nội, diễn ra sự kiện với khoảng hơn 20.000 người tham gia. Tháng 5-2019, Giáo hội Phật giáo tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc năm 2019 tại chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam với sự tham dự của trên 3.000 đại biểu chính thức (trong đó có 570 đoàn quốc tế với 1.650 đại biểu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ)… Những con số trên là minh chứng sinh động cho thấy tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được pháp luật bảo hộ và luôn được bảo đảm, thực thi trong thực tiễn, các tôn giáo có điều kiện hoạt động thuận lợi và ngày càng phát triển. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra sôi động ở khắp các vùng, miền, các cộng đồng dân cư, các tầng lớp xã hội, nhất là vào dịp đầu năm, lễ hội truyền thống. Các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó đồng hành với dân tộc. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện xóa đói, giảm nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước. Cộng đồng tôn giáo ở nước ta không ngừng được củng cố, phát triển trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ngày càng khẳng định vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, những cơ sở khoa học, pháp lý, thực tiễn trên tự nó góp phần bẻ gãy luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Thời gian tới, cơ quan chức năng, nòng cốt là cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở các cấp cần tích cực, chủ động hơn trong công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn để các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong và ngoài nước hiểu, thực hiện đúng chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta; kịp thời phát hiện, đấu tranh, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài “tự do tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”... để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, qua đó, góp phần định hướng dư luận tích cực và loại bỏ những cách nhìn thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam./.

--------------------------

(1) Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr. 1611
(2), (5) Xem Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, 2016
(3) Xem Website Tuyên truyền phổ biến pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, http://tuyentruyenphapluat.tphcm.gov.vn
(4) Xem Nghị quyết số 25/NQ-TW, ngày 12-3-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Về công tác tôn giáo
(6) Ban Tôn giáo Chính phủ, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022. tr. 90-91