TCCS - Trong những năm qua, chính sách phát triển công nghiệp của Bắc Ninh đã đem lại những hiệu quả lớn về tăng trưởng kinh tế và sự chuyển dịch tích cực cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Ngành công nghiệp phát triển thông qua mở rộng đầu tư, tăng năng lực sản xuất, tập trung vào một số nhóm sản phẩm chủ lực có lợi thế so sánh và ngành nghề truyền thống, phát triển làng nghề trên cơ sở khai thác tiềm năng và lợi thế về vị trí địa lý, tăng cơ hội về thị trường của vùng kinh tế trọng điểm...

Đặc điểm chung của Bắc Ninh

Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh của cả nước.

Ngay từ khi tái thành lập tỉnh (năm 1997), Bắc Ninh đã xác định phát triển kinh tế phải lấy phát triển công nghiệp làm trọng tâm, “thực hiện xây dựng và phát triển các khu công nghiệp tập trung, các khu công nghiệp làng nghề là khâu đột phá trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh”; phấn đấu đến năm 2015 Bắc Ninh cơ bản là tỉnh công nghiệp.

Giai đoạn 1997 - 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 13,8%, cao hơn tốc độ tăng trưởng của vùng đồng bằng sông Hồng. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến mạnh mẽ. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng tới 26,6 %. Ngành nông nghiệp vẫn tăng trưởng với mức bình quân 4,5%/năm, nhưng tỷ trọng của ngành này trong GDP giảm còn 26%. Năm 2001, tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP vượt qua ngành nông nghiệp và năm 2007 tỷ trọng này đã vượt qua mức tương ứng của cả nước.

Ngay từ khi tái thành lập tỉnh (năm 1997), Bắc Ninh đã xác định phát triển kinh tế phải lấy phát triển công nghiệp làm trọng tâm, “thực hiện xây dựng và phát triển các khu công nghiệp tập trung, các khu công nghiệp làng nghề là khâu đột phá trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh”; phấn đấu đến năm 2015 Bắc Ninh cơ bản là tỉnh công nghiệp.

Hiện nay, công nghiệp Bắc Ninh đang phát triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Cùng với sự ra đời của các khu công nghiệp (KCN) tập trung; việc xây dựng các KCN vừa và nhỏ, các KCN làng nghề đã thu hút được nhiều vốn trong dân cư, nhiều làng nghề được khôi phục và phát triển đã tạo nhiều việc làm tại chỗ, góp phần tăng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tỉnh đang đẩy mạnh liên kết công - nông nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất, xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng phát triển theo hướng hiện đại, gắn với đô thị hóa, phát triển đa dạng ngành nghề.

Các chính sách phát triển công nghiệp

Hơn 10 năm qua, Bắc Ninh đã tiến hành thực hiện các nhóm chính sách phát triển công nghiệp toàn diện nhằm đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh. Các chính sách này tập trung vào năm nhóm chính:

1 - Chính sách thu hút đầu tư phát triển công nghiệp

Một là, đầu tư phát triển KCN tập trung

Một trong những chính sách quan trọng để thu hút đầu tư phát triển công nghiệp là quy hoạch và đầu tư phát triển các KCN trên địa bàn. Hằng năm, ủy ban nhân dân tỉnh đã đầu tư vốn ngân sách hỗ trợ công tác quy hoạch, thẩm định phê duyệt quy hoạch chung và chi tiết các KCN trên địa bàn; xây dựng quy hoạch tổng thể về các KCN làm cơ sở để xây dựng quy hoạch sử dụng đất trình Chính phủ phê duyệt. Quy hoạch các KCN gắn với quy hoạch các khu dân cư và dịch vụ với mục tiêu hình thành thực thể kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, tạo sự phát triển bền vững, hòa nhập với sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Trong quản lý, tỉnh thành lập Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh để quản lý các KCN tập trung, huyện tổ chức Ban quản lý các khu công nghiệp huyện để quản lý KCN vừa và nhỏ (cụm công nghiệp). Việc thu hút đầu tư được xúc tiến thông qua các hình thức và các kênh thông tin khác nhau.

Thông qua thu hút đầu tư phát triển các KCN, tỉnh đã chọn lọc các dự án có quy mô, ngành nghề sản xuất phù hợp và sử dụng có hiệu quả quỹ đất. Kết quả thu hút đầu tư vào các KCN cho thấy, chất lượng và quy mô vốn đầu tư tăng từ mức 3,06 triệu USD/dự án (năm 2001) lên 7,94 triệu USD/dự án (năm 2007). Suất đầu tư trên một héc-ta đất tăng từ 1,15 triệu USD lên 6,52 triệu USD.

Hai là, chính sách đầu tư phát triển làng nghề truyền thống

Khu vực kinh tế làng nghề ở Bắc Ninh ngày càng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, tăng cường và nâng cao sức cạnh tranh, giảm sức ép bất lợi về đô thị hóa “ly nông bất ly hương”, tăng cường phúc lợi xã hội cho người dân ở thôn, xã có làng nghề. Bắc Ninh thực sự coi chính sách phát triển làng nghề là “hạt nhân” của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và công nghiệp hóa nông thôn.

Với thế mạnh của tỉnh là các làng nghề truyền thống, năm 1998, Tỉnh ủy đã có Nghị quyết số 04-NQ/TU về phát triển các làng nghề tiểu, thủ công nghiệp, hướng tới xây dựng, phát triển KCN, cụm công nghiệp (CCN) làng nghề, tiểu, thủ công nghiệp. Thực hiện Nghị quyết này, Bắc Ninh đã phục hồi và phát triển nhiều ngành nghề truyền thống. Nhiều làng nghề mới được hình thành, lan tỏa thành phố nghề, xã nghề, vùng nghề.

Ba là, chính sách điều chỉnh cơ cấu phát triển ngành công nghiệp

Kết quả thu hút đầu tư vào các KCN cho thấy, chất lượng và quy mô vốn đầu tư tăng từ mức 3,06 triệu USD/dự án (năm 2001) lên 7,94 triệu USD/dự án (năm 2007). Suất đầu tư trên một héc-ta đất tăng từ 1,15 triệu USD lên 6,52 triệu USD.

Trong thực hiện chính sách phát triển công nghiệp địa phương, Bắc Ninh luôn chú trọng điều chỉnh cơ cấu ngành nhằm hiện đại hóa công nghệ, phát triển các lĩnh vực có hiệu quả và tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh đã đề ra một số cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư để thu hút các ngành mới, công nghệ cao, có chính sách ưu tiên phát triển 7 nhóm ngành chủ yếu: Chế biến nông sản, sản phẩm thuốc lá, dệt may, sản xuất đồ gỗ, sản xuất kim loại, sản phẩm từ kim loại (không kể sản xuất máy móc, thiết bị), vật liệu xây dựng, giấy.

2 - Chính sách tiếp cận đất đai

Bắc Ninh đã sớm có quy hoạch sử dụng đất phù hợp thúc đẩy phát triển công nghiệp thông qua các hình thức: KCN, CCN và cấp đất cho doanh nghiệp riêng rẽ. Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010 đã được Chính phủ phê duyệt tại Nghị quyết số 09/2006/NĐ-CP ngày 26-5-2006.

Quy hoạch sử dụng đất đã được tỉnh xây dựng bảo đảm đủ quỹ đất thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp đáp ứng các mục tiêu đề ra. Tỉnh điều chỉnh hợp lý về giá đất thuê để xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng và giá cho thuê lại đất trong các KCN nên đã thu hút được các nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh thuê mặt bằng.

3 - Chính sách về khoa học và công nghệ

Khoa học và công nghệ đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển công nghiệp Bắc Ninh. Các chính sách về khoa học và công nghệ tập trung vào hai lĩnh vực chính là đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng trong quản lý:

- Đã triển khai được 8 dự án hỗ trợ các doanh nghiệp tiểu, thủ công nghiệp và làng nghề, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, khôi phục và phát triển nghề thủ công truyền thống, giải quyết việc làm cho người lao động. Đồng thời, đã hoàn thành việc triển khai áp dụng công nghệ thích hợp để xử lý nước thải từ sản xuất, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

- Các ngành khoa học, công nghiệp, thương mại đã triển khai nhiều hoạt động tư vấn, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO, Q-Base, HACCP, SA...) trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp các doanh nghiệp tiếp cận với các công cụ quản lý tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước tham gia cạnh tranh và hội nhập kinh tế.

4 - Chính sách phát triển nguồn nhân lực

Nhận thức rõ tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực, ngay từ những năm 1997 - 1998, Bắc Ninh đã thực hiện chính sách ưu đãi, sử dụng, thu hút nhân tài với các mức hỗ trợ cụ thể nhằm khuyến khích đội ngũ cán bộ học tập nâng cao trình độ và thu hút các chuyên gia giỏi về công tác tại tỉnh.

Bắc Ninh đã quy hoạch và xây dựng các khu nhà ở, tạo điều kiện cho công nhân có điều kiện làm việc tốt; quan tâm đào tạo nghề, tỷ lệ lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật trong tổng số lao động trên địa bàn tỉnh bình quân giai đoạn 2000 - 2003 tăng trên 2%, tổng số lao động qua đào tạo đạt 24,8%, cao hơn tỷ lệ bình quân của các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng.

5 - Chính sách cải thiện môi trường kinh doanh

Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo xây dựng và ban hành kế hoạch nghiên cứu xây dựng cải cách quy trình thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư; ban hành chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp; thành lập Ban quản lý các KCN, trung tâm khuyến công, khuyến nông và ban chỉ đạo những vấn đề liên quan đến đầu tư; triển khai thực hiện cơ chế “một cửa”, “một đầu mối” tại các sở, ban, ngành và ủy ban nhân dân các cấp; thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” trong đăng ký kinh doanh; tổ chức hội nghị chuyên đề với các nhà đầu tư, các buổi đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh và doanh nghiệp; xây dựng trang điện tử (website) của tỉnh và các sở, ngành tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các cơ hội, các chính sách...

Hiệu quả thực hiện các chính sách phát triển công nghiệp giai đoạn 1997 - 2007

Việc thực hiện những chính sách phát triển công nghiệp phù hợp tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã bước đầu đạt được những thành tựu quan trọng, GDP có xu hướng tăng nhanh, các khu vực kinh tế duy trì sự tăng trưởng đều đặn, không có khu vực nào biến động nghịch.

Giai đoạn 1997 - 2007, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở mức 2 con số, thấp nhất là 11,5% (năm 1998), cao nhất 105,2% (năm 1999). Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm đạt 31,9%.

Công nghiệp Bắc Ninh phát triển với các ngành sản xuất khá đa dạng, dựa trên ưu thế tự nhiên, gắn với quá trình sản xuất của các làng nghề truyền thống, sự phân bố các cơ sở sản xuất của Trung ương trong thời kỳ trước đây cũng như dựa trên các lợi thế so sánh, thu hút đầu tư từ bên ngoài được hình thành trong quá trình phát triển các KCN. Các nhóm ngành chính gồm: khai thác (đá, cát, sỏi); công nghiệp chế biến; sản xuất, phân phối điện nước và khí đốt, trong đó công nghiệp chế biến chiếm tới trên 92% trong giai đoạn đầu. Với chính sách phát triển công nghiệp phù hợp, ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp chế tạo phục vụ xuất khẩu đã tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu ngành công nghiệp.

Kết quả thực hiện chính sách phát triển công nghiệp góp phần phát huy đa dạng nguồn vốn trong đầu tư, thu hút được số lượng lớn nguồn vốn từ bên ngoài cho phát triển; cơ cấu ngành công nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng hiện đại; phát huy lợi thế so sánh đối với các nhóm ngành có ưu thế; phát triển được một số doanh nghiệp thuộc nhóm ngành mới và nhóm ngành sử dụng công nghệ cao; nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí trung gian và nâng cao năng suất lao động. Mức tăng năng suất lao động trong công nghiệp chế biến (tính theo GDP) tăng nhanh hơn tốc độ tăng GDP hằng năm. Đồng thời, mức tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2003 - 2007 đạt 20,2% (năm 2002 đạt 14,5%).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện chính sách phát triển công nghiệp của Bắc Ninh vẫn còn những hạn chế:

- Về xây dựng chính sách: Khâu yếu nhất trong chính sách hiện nay là vấn đề điều tiết và sử dụng các công cụ hỗ trợ gián tiếp để điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp. Chính sách phát triển công nghiệp vẫn chậm trong việc đặt sản xuất vào chuỗi giá trị hàng hóa, không chỉ ở một ngành, mà trong toàn bộ nền kinh tế của tỉnh, trong bối cảnh khu vực và toàn cầu.

- Về tổ chức thực hiện chính sách: Hệ thống chính sách phát triển công nghiệp tỉnh vẫn chưa đáp ứng đầy đủ đòi hỏi của thực tiễn. Một số chính sách hiện có chưa bảo đảm tính toàn diện và nhất quán; chất lượng một số chính sách chưa cao. Một số cấp, ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định không còn phù hợp, bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác động giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn các nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế và toàn xã hội.

Việc thực thi chính sách còn gặp nhiều vấn đề bất cập, chưa nghiêm và thiếu kỷ luật; hiện tượng vi phạm hay lạm dụng chính sách vì lợi ích cục bộ vẫn tồn tại.

- Nhóm chính sách thu hút đầu tư phát triển công nghiệp và nhóm chính sách xây dựng môi trường kinh doanh chưa có tác động đủ mạnh để thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp theo xu hướng mới. Các ngành điện tử, thiết bị máy móc chính xác chiếm tỷ lệ thấp, chưa khai thác lợi thế so sánh để hiện đại hóa công nghiệp địa phương. Cơ cấu đầu tư theo vùng vẫn còn bất hợp lý, chưa tạo môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI mới đạt mức khá. Thu hút đầu tư vẫn dựa nhiều vào lợi thế sẵn có như điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi.

Giai đoạn 1997 - 2007, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở mức 2 con số, thấp nhất là 11,5% (năm 1998), cao nhất 105,2% (năm 1999). Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm đạt 31,9%.

- Nhóm chính sách tiếp cận đất đai cho doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, tồn tại một số vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính rườm rà. Sự phối hợp trong thực hiện chính sách, trong quản lý đầu tư và đất đai còn kém hiệu quả.

Nhóm chính sách đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều khiếm khuyết. Việc đào tạo, nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật, chưa đáp ứng thực tế phát triển của các KCN. Trong số lao động đang làm việc trong KCN có 55% - 60% là người địa phương, nhưng chỉ có 21,5% được đào tạo tại các trường dạy nghề trong tỉnh, còn lại là các lao động do chính các doanh nghiệp tự đào tạo.

Chất lượng và số lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của các KCN; cung không gặp cầu; ngành nghề, trình độ và phương pháp làm việc được đào tạo không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp; doanh nghiệp khó tuyển dụng lao động còn học sinh ra trường thì không xin được việc làm. Dịch vụ tuyển dụng lao động phục vụ cho các KCN chưa phát triển và còn khá manh mún.

Nhóm chính sách khoa học - công nghệ mặc dù được triển khai và thực hiện trong nhiều năm nhưng vẫn ở quy mô nhỏ. Do chưa có chiến lược cụ thể hướng vào từng ngành công nghiệp mũi nhọn nên các ngành công nghệ cao vẫn bị phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài. Mặt khác, do chưa tập trung vào các chiến lược phát triển khoa học - công nghệ phục vụ phát triển bền vững nên trên địa bàn tỉnh còn xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Từ những thành tựu và hạn chế trong thực hiện chính sách phát triển công nghiệp của tỉnh, Bắc Ninh rút ra những bài học kinh nghiệm sau đây:

Thứ nhất, về xây dựng chính sách: Việc xem xét chiến lược phát triển công nghiệp của mỗi vùng cần phải đặt trong mối quan hệ của mục tiêu, các mối quan hệ ưu tiên, các chính sách của địa phương, quan hệ tương tác, hữu cơ giữa phát triển kinh tế - xã hội với chính sách phát triển từng ngành và chiến lược phát triển của khu vực, quốc gia và quốc tế.

Chính quyền địa phương phải tạo ra các công cụ và kênh chính sách khoa học, thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài dễ tiếp cận.

Thứ hai, về quy hoạch phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn: Từ một tỉnh có trình độ phát triển thấp, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh Bắc Ninh cần có những “điểm nhấn”, lựa chọn ngành mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm để đầu tư phát triển, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, gây lãng phí. Chỉ nên tập trung vào một hoặc hai ngành then chốt mà địa phương có lợi thế để phát triển.

Thứ ba, về từng nhóm chính sách phát triển công nghiệp: Hệ thống chính sách phải được xây dựng trên cơ sở đồng bộ và nhất quán với chiến lược phát triển chung của toàn tỉnh. Không nên tách bạch chính sách cho từng hoạt động hoặc từng ngành một cách độc lập. Đồng thời, các nhóm chính sách này phải gắn với nhau theo quan điểm hỗ trợ và có tính liên kết cao.

Thứ tư, về tổ chức thực hiện chính sách: Để thực hiện tốt các chính sách đề ra, cần phối hợp thường xuyên và đồng bộ các cơ quan quản lý với các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách. Kịp thời bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy có liên quan phù hợp với chính sách phát triển trong từng giai đoạn, bảo đảm tính toàn diện và nhất quán; kiểm soát và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm hay lạm dụng chính sách để vụ lợi hay vì lợi ích cục bộ.

Trong quá trình thực hiện phải rà soát các chính sách phát triển công nghiệp hiện có để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và vùng kinh tế. Các nhóm chính sách phải mang tính tổng thể, liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội chung, dựa trên sự phân bố hợp lý, căn cứ vào tiềm năng, lợi thế phát triển trong tương lai của từng địa phương và khu vực./.