TCCSĐT - Ngày 21-11-2014, tại Hà Nội, Đề tài khoa học cấp nhà nước KX.04.06/11-15, do Tạp chí Cộng sản chủ trì, đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Về một số quan điểm, giải pháp lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Dưới đây, xin tổng thuật những nội dung chính của Hội thảo.


Mở đầu Hội thảo, TS. Phạm Tất Thắng, Phó Tổng Biên tập Thường trực Tạp chí Cộng sản, Chủ nhiệm Đề tài “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” (mã số KX.04.06/11-15), đã trình bày báo cáo đề dẫn, trong đó gợi ý một số nội dung chính mà Hội thảo nên tập trung thảo luận là: 1- Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính chất, đặc điểm, nội dung, nhiệm vụ, mục tiêu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ năm 1930 đến nay; 2- Một số vấn đề đang đặt ra về lý luận và thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay; 3- Thời kỳ quá độ và vấn đề phát triển rút ngắn trong quá trình lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay; 4) Xác định những hình thức, bước đi trung gian quá độ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội trong thời kỳ quá độ; 5- Vấn đề xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; 6- Vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; 7- Vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới hệ thống chính trị, Đảng cầm quyền, cải cách hành chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; 8- Các phương hướng, quan điểm tổng quát nhằm thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; 9- Các phương châm và nguyên tắc chỉ đạo (trước mắt và lâu dài) nhằm thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; 10- Hệ thống các giải pháp lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Hơn 30 tham luận gửi đến Hội thảo và các ý kiến phát biểu tại Hội thảo đã tập trung thảo luận một số vấn đề như sau:

Một số vấn đề đang đặt ra về lý luận và thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay

Nhiều tham luận và ý kiến phát biểu đã trực tiếp hoặc gián tiếp bàn về vấn đề này, trong đó, đáng chú ý là các tham luận: “Điều gì cần suy nghĩ trong lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?” của đồng chí Hà Đăng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương; “Về quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của đồng chí Hữu Thọ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương; “Một số vấn đề đang đặt ra về lý luận và thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay” của GS, TS. Dương Phú Hiệp, nguyên Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương; “Làm rõ luận điểm qua các tác phẩm mác-xít về bỏ qua giai đoạn của sự phát triển - cơ sở nhận thức và vận dụng vào điều kiện nước ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay” của GS, TS. Nguyễn Hữu Khiển, nguyên Phó Giám đốc Học viện Hành chính quốc gia.

Theo đồng chí Hà Đăng, lý luận của Đảng ta về thời kỳ quá độ là có tính khách quan, khoa học, nhưng trong thực tiễn hành động cũng phải thấy những hạn chế và vướng mắc, đó là về “thời gian và các chặng đường của thời kỳ quá độ”; “tính chất và nội dung các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ”. Đồng chí cho rằng, việc định ra một thời kỳ quá độ quá dài, lại chia ra thành những chặng đường, những bước phát triển có phần cụ thể sẽ có thể dẫn đến sự gò bó, cứng nhắc. Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước đang có những biến chuyển nhanh chóng, do đó có thể có sự đột phá trong rút ngắn thời gian và quá trình phát triển, nếu Đảng ta có quyết sách đúng. Theo đồng chí Hữu Thọ, 8 nội dung của “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng” được Đảng ta nêu lên trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) là khi đã có chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa xã hội đã hoàn chỉnh, hay đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội), trong khi hiện nay chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà thời kỳ này, như Đảng ta nói, là “một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là, nếu xây dựng đường lối, chính sách phát triển đất nước như khi chủ nghĩa xã hội đã hoàn chỉnh thì sẽ dẫn đến tả khuynh. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đưa đất nước từng bước tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng có những bước đi như thế nào cho thích hợp là cả một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Do đó, việc tổng kết trung thực, sâu sắc thực tiễn đổi mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là rất quan trọng, giúp cho xác định một cách khoa học, chuẩn xác những nội dung và nhất là những bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đặc biệt, khi bàn về những vấn đề đang đặt ra về lý luận và thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay, GS, TS. Dương Phú Hiệp đã nêu ra 12 vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu, thảo luận, trong đó có một số vấn đề rất đáng lưu ý là: 1- Về lý luận, chúng ta chưa giải quyết được sự khác biệt giữa kiểu quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội với kiểu quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội; 2- Mối quan hệ giữa thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với thời đại ngày nay; 3- Mối quan hệ giữa thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội với hình thái kinh tế - xã hội; 4- Các khái niệm “con đường xã hội chủ nghĩa”, “định hướng xã hội chủ nghĩa” và “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” có liên quan với nhau như thế nào và có gì khác biệt giữa các khái niệm ấy? Có thể thay thế khái niệm “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” bằng khái niệm “thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” được không?; 5- C. Mác và Ph. Ăng-ghen chỉ dự báo khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu, chậm phát triển, chứ không nói về tính tất yếu của sự quá độ đó. Phải chăng sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta chủ yếu là do tất yếu chính trị, chứ không phải do tất yếu kinh tế?; 6- Trước đây, người ta thường đề cập đến một tiền đề quan trọng để cho các nước lạc hậu thực hiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội là: các nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ các nước lạc hậu để có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng tiền đề đó đến nay không còn nữa. Vậy tiền đề để cho các nước lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa hiện nay là gì? 7- Trước đây, các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, một số nước Đông Âu và cả Trung Quốc khi tuyên bố kết thúc thời kỳ quá độ thường dựa vào tiêu chuẩn là ở nước đó đã hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, giải quyết xong vấn đề “ai thắng ai”. Từ nay, Việt Nam nên vận dụng những tiêu chuẩn gì để tuyên bố kết thúc thời kỳ quá độ?;…

Bàn về những vấn đề liên quan trực tiếp đến lý luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, GS, TS. Nguyễn Hữu Khiển GS, TS. Trần Ngọc Hiên, nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cho rằng, hiện nay Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong bối cảnh không còn có các nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ, nhưng có một thực tế mà các nhà kinh điển chưa có điều kiện nghiên cứu và dự báo, đó là xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức. Thực tế đó đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn và tranh thủ thời cơ để thực hiện thời kỳ quá độ rút ngắn lên chủ nghĩa xã hội.

Nhận thức, quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta từ năm 1930 đến nay

Đây là vấn đề được khá nhiều tham luận đề cập và phân tích, tổng kết một cách sâu sắc, như các tham luận của TS. Phạm Tất Thắng, đồng chí Hà Đăng, đồng chí Hữu Thọ, PGS, TS. Vũ Hữu Ngoạn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, GS, TS. Đỗ Thế Tùng, nguyên Trưởng Khoa Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, PGS, TS. Đặng Hữu Toàn, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, PGS, TS. Lại Quốc Khánh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,… Các tác giả khẳng định, ngay từ năm 1930, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định, cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi thì trước tiên phải tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ đó đến nay, mặc dù tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, tình hình trong nước có nhiều thay đổi, chuyển biến, nhưng Đảng ta vẫn kiên định con đường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn và hướng tới. Nhận thức, quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng như về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta ngày càng sáng rõ.

Theo PGS, TS. Vũ Hữu Ngoạn, qua gần 30 năm đổi mới cho thấy, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, mà là đổi mới nội dung và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền kinh tế kém phát triển. Về thực chất, đổi mới ở đây là nhận thức và thực hiện cho đúng các nội dung và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, luôn luôn giữ đúng cự ly của các bước đi trong thời kỳ quá độ. Nói cách khác, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (được nhận thức đúng và làm đúng) và công cuộc đổi mới ở nước ta là có cùng bản chất, cùng nội dung. Chính vì vậy mà Cương lĩnh hiện nay của Đảng ta là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Còn theo PGS, TS. Đặng Hữu Toàn, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa hay “không trải qua”, “không kinh qua” giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản đầy đủ - đó là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Đây là con đường “quá độ gián tiếp” theo phương thức “phát triển rút ngắn”, là bước phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên, là con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động Việt Nam.

Tuy nhiên, trong tham luận với tiêu đề “Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975”, GS, TS. Đỗ Thế Tùng cho rằng, trong giai đoạn này, nhận thức của chúng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam còn có những sai lầm nhất định, mà nguyên nhân là do chúng ta đã đối lập một cách trừu tượng chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, nên hầu như đồng nhất "bỏ qua chế độ tư bản" với xóa bỏ sạch trơn tất cả những gì liên quan đến chủ nghĩa tư bản, không thấy tính kế thừa lịch sử. Những sai lầm đó thể hiện ở một số khía cạnh nhận thức và thực tiễn như sau: 1- Coi chủ nghĩa tư bản là trở lực chính trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của miền Bắc nước ta; 2- Cho rằng ở nước ta có thể chủ động sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội từ sản xuất nhỏ; 3- Cắt đứt sự liên hệ kinh tế giữa giải cấp tư sản dân tộc với nông dân, thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ. Còn TS. Phạm Tất Thắng nhận định, bên cạnh những quan điểm đúng đắn, khoa học về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, trong một thời gian tương đối dài, nhận thức của chúng ta về vấn đề này còn mắc phải một số hạn chế, thiếu sót sau: Thứ nhất, lẽ ra phải xây dựng lý thuyết về kiểu quá độ gián tiếp thì chúng ta lại đem áp dụng máy móc, giáo điều lý thuyết về sự quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, do vận dụng máy móc lý thuyết kinh điển và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước nên chúng ta đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ồ ạt, và tiến hành đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề "ai thắng ai", tuy không gay gắt, nhưng cũng không tìm được động lực phát triển. Thứ ba, mặc dù nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là thời kỳ lâu dài, nhưng do chúng ta mắc bệnh chủ quan, duy ý chí nên nhiều chủ trương, chính sách đã tỏ ra nóng vội, muốn "đốt cháy giai đoạn" và kết quả nhận được không như mong muốn. Thứ tư, chúng ta hiểu không đúng về cụm từ "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" nên đã rơi vào chủ nghĩa biệt phái, chủ nghĩa hư vô, phủ định sạch trơn những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Qua đó cho thấy, chúng ta không chỉ phải đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội, mà còn phải đổi mới tư duy về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta, nghĩa là phải xây dựng một lý thuyết mới về thời kỳ quá độ.

Trong tham luận với tiêu đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (thời kỳ 1945 - 1954)”, PGS, TS. Lại Quốc Khánh cho rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thành quả lớn nhất của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự ra đời của chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân. Theo Người, chế độ dân chủ nhân dân không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa, song đó là chế độ xã hội hướng tới chế độ xã hội chủ nghĩa, hay nói cách khác, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ ra đời từ/trong chế độ dân chủ nhân dân. Đây là quan điểm rất cơ bản của Người về chế độ dân chủ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ 1945 - 1954. Chúng ta đều biết rõ, Đảng ta chính thức có quan điểm cho rằng, từ năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhất trí với quan điểm như vậy. Bước vào thời kỳ quá độ, tức là bắt tay “xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội”(1), song đây là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng chế độ dân chủ nhân dân.

Những đặc điểm và đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bàn về những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, GS, TS. Trần Ngọc Hiên cho rằng, trước hết cần phân tích những đặc điểm về kinh tế, chính trị và văn hóa của nước ta ở điểm xuất phát hiện nay, bởi có như vậy mới có thể trả lời được câu hỏi: Nước ta đang ở đâu và đi tới đâu trong thế kỷ XXI? Theo tác giả, sau khi đất nước thống nhất (năm 1975), nước ta vẫn là nước có nền kinh tế nông nghiệp nhỏ với định hướng sai. Phải mất 10 năm sau, vào năm 1986, mới chuyển sang kinh tế hàng hóa thị trường. Định hướng kinh tế mới này là phù hợp với quy luật về xây dựng cơ sở kinh tế của chế độ mới, mà bước đầu là tăng trưởng của cải, ổn định xã hội. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã đưa ra những mục tiêu mới như ''dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh" và xây dựng thể chế "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân". Đây là một bước tiến về tư duy chính trị và phù hợp với xu thế của thời đại. Tuy nhiên, từ đó đến nay chúng ta vẫn chưa thực hiện được những mục tiêu này ở mức độ cần thiết. Cơ hội mới cho nước ta là ngày nay kinh tế thị trường đã thay đổi định hướng phát triển - định hướng phát triển bền vững, theo đó, tăng trưởng kinh tế gắn liền với an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Với đặc điểm địa kinh tế nước ta, định hướng phát triển bền vững là định hướng của thể chế chính trị và văn hóa, nếu không, mục tiêu xã hội chủ nghĩa vẫn chỉ là không tưởng, chủ quan, duy ý chí.

Phân tích những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, ở một góc độ khác, PGS, TS. Vũ Hữu Ngoạn nhận định: Thực tiễn gần 30 năm đổi mới ở nước ta càng làm sáng tỏ lý luận rằng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ lịch sử đặc biệt, vừa có chủ nghĩa tư bản, vừa có chủ nghĩa xã hội. Ở đây, vai trò của các hình thức kinh tế quá độ, trung gian là rất quan trọng, bởi chính nó hiện thực hóa nội dung vừa có chủ nghĩa tư bản, vừa có chủ nghĩa xã hội, vừa kế thừa chủ nghĩa tư bản, vừa phát sinh mầm mống của chủ nghĩa xã hội. Nếu không có hình thức kinh tế quá độ, trung gian thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ là lý thuyết rỗng tuếch. Rõ ràng, ở đây đòi hỏi vừa phải chống nóng vội, tả khuynh, vừa phải chống trì trệ, buông trôi, hữu khuynh.

Trong tham luận với tiêu đề “Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần - đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, PGS, TS. Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, cho rằng, trước thời kỳ đổi mới, chúng ta có tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí, muốn xóa bỏ kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể) trong thời gian ngắn, cho rằng quốc doanh hóa và tập thể hóa càng nhanh, càng nhiều, càng quy mô lớn thì càng sớm có chủ nghĩa xã hội. Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải biết lựa chọn những hình thức quan hệ sản xuất từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn, nhất là những hình thức kinh tế trung gian, quá độ phù hợp với trình độ phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế. Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn: Đảng ta không chỉ thừa nhận sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt cả thời kỳ quá độ đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta, mà còn thấy được sự cần thiết phải có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế tư nhân có lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Thừa nhận nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, đòi hỏi phải xóa bỏ những thành kiến thiên lệch trong đánh giá và đối xử giữa các chủ thể kinh doanh và người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Ngày nay, trong xã hội ta, bất kỳ đơn vị kinh tế nào, cá nhân nào thuộc thành phần kinh tế nhà nước, hoặc các thành phần kinh tế tư nhân nếu làm ra nhiều của cải và thực hiện những công việc có ích cho xã hội đều được tôn trọng; ngược lại, những kẻ lười biếng, ăn bám, vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước đều bị trừng phạt nghiêm minh.

Một số phương châm và quan điểm tổng quát nhằm thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bàn về một số phương châm trước mắt và lâu dài nhằm thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn, Hàm Vụ trưởng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đã đưa ra 8 phương châm cơ bản, trong đó có 2 phương châm trước mắt và 6 phương châm vừa trước mắt, vừa lâu dài. Theo tác giả, 6 phương châm vừa trước mắt, vừa lâu dài là: 1- Xác định nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, đồng thời tiếp thu, vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng của dân tộc và của nhân loại; 2- Nhất quán sử dụng khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” nhằm hạn chế việc sử dụng máy móc phạm trù “thời kỳ quá độ”, “chủ nghĩa xã hội” hay trạng ngữ “xã hội chủ nghĩa” cho các khái niệm Nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị, nền dân chủ, xã hội dân chủ ở nước ta; 3- Vừa kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vừa xác định rõ mục tiêu hiện thực trong quá trình xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa; 4- Chuyển việc sử dụng cụm từ “những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng” như hiện nay sang sử dụng cụm từ “những quan điểm định hướng xã hội chủ nghĩa”; 5- Xây dựng cơ cấu đồng thuận xã hội nhằm đoàn kết toàn dân trên cơ sở thúc đẩy phát triển nhóm xã hội trung lưu hay khá giả, đồng thời với việc chủ động xây dựng đội ngũ các “nhà tư bản đỏ” - như V.I. Lê-nin đã chỉ dẫn; 6- Đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” định hướng xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong đó bao gồm nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ trên cơ sở bảo đảm quyền con người và đoàn kết toàn dân nhằm tạo môi trường và điều kiện điều tiết các mối quan hệ lớn trong tiến trình đổi mới.

Trong đề xuất các quan điểm tổng quát nhằm thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, GS, TS. Lưu Văn Sùng, nguyên Viện trưởng Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đã đưa ra 4 quan điểm lớn liên quan việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ này, đó là: quan điểm về chủ nghĩa xã hội; quan điểm về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; quan điểm về điều kiện khách quan bảo đảm cho việc thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; và quan điểm về nhân tố chủ quan bảo đảm cho việc thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, cuối bản tham luận, tác giả đưa ra quan điểm về việc nhận thức, đánh giá và khắc phục những nan giải trong thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh một số điểm như sau: Để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tiên phong cách mạng, song khi Đảng đã cầm quyền thì rất có thể sẽ tha hóa cùng với nhà nước. Vậy làm thế nào để Đảng không bị tha hóa, giữ vững được vai trò lãnh đạo trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Muốn tiếp thu được văn minh vật chất và văn minh tinh thần của nhân loại để phục vụ công cuộc xây dựng đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cần phải hội nhập quốc tế, nghĩa là chấp nhận cạnh tranh quốc tế. Trong cuộc cạnh tranh ấy, những quốc gia lạc hậu có thể vươn lên và tiến kịp các nước tiên tiến, nhưng có thể ngày càng tụt hậu xa hơn. Vậy làm thế nào để tiến lên mà không bị tụt hậu? Để giải quyết những nan giải nêu trên, không chỉ dừng lại ở những quan điểm chung, mà cần có phương hướng và giải pháp cụ thể.

Một số giải pháp lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Đây là vấn đề thu hút sự quan tâm nhiều nhất của các đại biểu tham dự Hội thảo, được thể hiện ở một số tham luận tiêu biểu như: “Một số giải pháp thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của PGS, TS. Nguyễn Mạnh Hưởng, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng; “Vấn đề phát triển rút ngắn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, của PGS, TS. Vũ Văn Hà, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta trong bối cảnh mới” của GS, TS. Chu Văn Cấp, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay” của TS. Phạm Việt Dũng, Trưởng Ban Kinh tế, Tạp chí Cộng sản; “Hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền, quyền làm chủ của nhân dân và các định chế xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” của GS, TS, NGND. Lê Văn Quang, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự; “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và các thiết chế chính trị - xã hội nhằm bảo đảm thực thi quyền lực của nhân dân trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay” của TS. Trần Ngọc Liêu, Đại học Quốc gia Hà Nội;…

Bàn về những giải pháp lý luận nhằm góp phần thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, PGS, TS. Nguyễn Mạnh Hưởng cho rằng, cần tiếp tục có nhận thức rõ hơn, cụ thể hơn và có những bước phát triển mới trong lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, nhất là về những khó khăn, phức tạp của thời kỳ này. Theo PGS, TS. Vũ Văn Hà, trong nhận thức cũng như trong nghiên cứu lý luận, cần thấy rằng, phát triển rút ngắn bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội hay phát triển rút ngắn từng giai đoạn trong bản thân một hình thái kinh tế - xã hội đều là hợp quy luật (quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất,...); đồng thời, về mặt nhận thức cũng như thực tiễn, cần thấy được rằng, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn trong thời gian qua đã tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam. Tác giả còn cho rằng, để có thể thực hiện quá trình phát triển rút ngắn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, chúng ta cần tiến hành một hệ giải pháp đồng bộ, nhằm phát huy các nguồn lực bên trong và bên ngoài,…

Đi sâu nghiên cứu để đề xuất các giải pháp thực tiễn nhằm góp phần thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, một số tác giả đã nêu ra và phân tích kỹ những nội dung, giải pháp cơ bản, cấp thiết nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo GS, TS. Chu Văn Cấp, những nội dung cơ bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là: 1- Hoàn thiện thể chế sở hữu, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 2- Hoàn thiện môi trường kinh doanh chung của nền kinh tế (bao gồm cải thiện môi trường thể chế; cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô; cải thiện môi trường chính trị - xã hội); 3- Đẩy mạnh và kiên quyết cải cách hành chính; 4- Đổi mới và nâng cao vai trò, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước; 5- Hoàn thiện thể chế về phân phối thu nhập quốc dân, giải quyết có hiệu quả tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Còn TS. Phạm Việt Dũng cho rằng, để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau: 1- Tiếp tục đổi mới tư duy; 2- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; 3- Nâng cao năng lực thực hiện chức năng quản lý sự phát triển của Nhà nước; 4- Tăng cường nguyên tắc tham dự; 5- Coi trọng tính minh bạch và công tác giám sát, kiểm tra;..

Để tiếp tục hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền, quyền làm chủ của nhân dân và các định chế xã hội, chính trị - xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, theo GS, TS, NGND. Lê Văn Quang, cần thực tốt một số giải pháp sau: Một là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các định chế xã hội, chính trị - xã hội theo yêu cầu của luật pháp và Đảng cầm quyền. Hai là, xây dựng các định chế xã hội và nâng cao dân trí, kết hợp chặt chẽ với xây dựng, củng cố bộ máy Đảng, Nhà nước và đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức nhà nước. Ba là, tập trung giải quyết các bức xúc xã hội trong quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền nhà nước với phát huy quyền dân chủ của nhân dân và các định chế xã hội;… Liên quan đến vấn đề nói trên là vấn đề xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước và các thiết chế chính trị - xã hội nhằm bảo đảm thực thi quyền lực của nhân dân trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay. Theo TS. Trần Ngọc Liêu, để giải quyết tốt vấn đề này, cần thực hiện một số biện pháp sau: 1- Đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng, củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền; 2- Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước; 3- Xây dựng và hoàn thiện các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị.

Bên cạnh những giải pháp lý luận và thực tiễn nói trên, một số tác giả còn đi sâu nghiên cứu và đề xuất những giải pháp có tính chất thực tiễn về một số vấn đề liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, được thể hiện ở một số tham luận như: “Bảo đảm sự thống nhất giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay” của TS. Lê Thị Thanh Hà, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; “Một số quan điểm và giải pháp thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của TS. Nguyễn Văn Chiều, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Vấn đề quốc phòng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam” của Thiếu tướng, PGS, TS. Nguyễn Vĩnh Thắng, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng.

Ngoài ra, nội dung của một số tham luận cũng liên quan nhiều đến việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và các giai đoạn trước đây, hoặc liên quan đến công cuộc xây dựng và đổi mới chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta nói chung. Chẳng hạn, đó là các tham luận: “Đặc điểm lý thuyết đổi mới và những bài học lớn từ thực tiễn 30 năm đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của TS. Phạm Đình Đảng, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; “Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975” của PGS, TS. Nguyễn An Ninh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; “Vấn đề động lực trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” của TS. Hoàng Văn Luân, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Phân hóa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam - Từ góc nhìn chính sách tích tụ và tập trung đất đai” của TS. Đỗ Văn Quân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ở đây, đáng chú ý là trong tham luận của mình, TS. Phạm Đình Đảng đã rút ra 5 bài học lớn từ thực tiễn 30 năm đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như sau: Một là, xuất phát từ chính mình trên cơ sở nhận thức đầy đủ, đúng đắn về đất nước và thời đại hiện nay. Hai là, kiên định lập trường, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa và đổi mới sáng tạo. Ba là, mục tiêu, hướng đi chỉ có một, nhưng hình thức, bước đi phải đa dạng và biện pháp phải phong phú, cụ thể; và nhân dân là mục tiêu, là chủ thể, là động lực của công cuộc đổi mới. Bốn là, giữ vững độc lập, tự cường và chủ động hội nhập quốc tế hiệu quả là động lực quan trọng góp phần đưa Việt Nam vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Năm là, giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

------------------------------------------------

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 435