Nâng cao chất lượng và năng lực đội ngũ công chức tư pháp cơ sở ở Quảng Trị
TCCS - Hệ thống cơ quan tư pháp từ trung ương đến cơ sở thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tư pháp và là lực lượng chủ lực trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách hành chính và tư pháp, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đang đứng trước không ít cơ hội và thách thức. Công tác phổ biến, giáo dục trên địa bàn cơ sở tỉnh Quảng Trị còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố đặc thù, nhưng suy đến cùng là phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ công chức tư pháp cơ sở.
Những bất cập trong hoạt động của công chức tư pháp cơ sở
Thứ nhất, bất cập giữa khối lượng công việc đồ sộ với số lượng và chất lượng đội ngũ công chức tư pháp cơ sở.
Trên thực tế, công chức tư pháp cơ sở được giao triển khai gần như tất cả công việc chuyên môn nghiệp vụ thuộc lĩnh vực tư pháp trên địa bàn cơ sở. Mặc dù đã có những cải thiện đáng kể về số lượng và chất lượng của đội ngũ công chức tư pháp cơ sở, nhưng sự chuyển biến chưa thật cơ bản và chưa đáp ứng các tiêu chuẩn chung. Theo thống kê của Sở Nội vụ Quảng Trị, trong nhiệm kỳ 2004 - 2009, số lượng công chức tư pháp cơ sở của tỉnh Quảng Trị là 190 người, trong đó chỉ có 3,16% có trình độ đại học, số còn lại chỉ có 58,95% có trình độ trung cấp.
Đây là một trong những nguyên nhân về sự yếu kém trong khả năng nắm bắt, phân tích tình hình; khả năng xử lý thông tin, nhất là những thông tin phức tạp, nhiều chiều; nhất là trong việc ban hành các quyết định kịp thời có tính khả thi hoặc khả năng áp dụng chính sách, pháp luật để xử lý những tình huống cụ thể sao cho “thấu tình, đạt lý”; và lo ngại nhất là khả năng tổ chức thực hiện và kiểm tra các quyết định được ban hành... Thêm vào đó, trong thực hiện chức năng và nhiệm vụ của công chức tư pháp cơ sở, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh Quảng Trị chưa được quan tâm và đầu tư thỏa đáng.
Mặt khác, mặc dù được quy định là một trong bảy chức danh công chức cơ sở, nhưng đội ngũ công chức tư pháp chưa thực sự ổn định. Thực tế tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ở Quảng Trị thời gian qua cho thấy, sau mỗi kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân, tỷ lệ công chức tư pháp thay đổi vị trí công tác vì nhiều lý do khác nhau là khá lớn. Sự phát triển, thăng tiến của công tác tư pháp cơ sở, đặc biệt là những người được đào tạo về luật là một điều đáng mừng và là sự đóng góp của ngành tư pháp cho chính quyền cơ sở; nhưng chính sự biến động lớn lại là một thách thức không nhỏ cho việc chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ này.
Thứ hai, bất cập giữa yêu cầu tiêu chuẩn hóa, công chức hóa với thực trạng ít được đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ công chức tư pháp cơ sở.
Tiêu chuẩn hóa đội ngũ công chức cơ sở là yêu cầu có tính khách quan nhằm từng bước xây dựng đội ngũ công chức chính quy, chuyên nghiệp. Trên cơ sở Nghị định số 114/2003/NĐ-CP của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, tỉnh Quảng Trị đã xây dựng hệ thống tiêu chuẩn cụ thể đối với 7 chức danh công chức cơ sở. Đây là căn cứ pháp lý đối với công tác đào tào, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng đội ngũ công chức cơ sở nói chung và công chức tư pháp nói riêng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đã được quan tâm nhiều hơn trong những năm gần đây, nhưng so với nhu cầu thì vẫn còn khoảng cách khá xa. Tìm hiểu thực tế cho thấy, nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ công chức tư pháp cơ sở ở Quảng Trị là rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác đào tạo, bồi dưỡng lại còn không ít hạn chế, bất cập. Trước hết, việc tuyển chọn người đi học chưa bảo đảm tiêu chuẩn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao hiện đang thiếu hụt nguồn đào tạo nên đã gửi đi đào tạo những người chưa đủ điều kiện so với chuẩn chung. Phần lớn nội dung, chương trình đạo tạo, bồi dưỡng thiếu hướng dẫn kỹ năng, thao tác xử lý công việc cụ thể, trong khi thừa tính “hàn lâm”, lý luận chung chung. Ngoài ra, chính sách đãi ngộ đối với người đi học chưa thỏa đáng, mới tạo điều kiện về quyền lợi vật chất chứ ít chú ý đến vấn đề đánh giá, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm. Đây là những nguyên nhân chính tạo nên tâm lý “ngại học” của phần đông công chức tư pháp cơ sở.
Thứ ba, bất cập giữa yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động với kinh phí hoạt động.
Kinh phí cho việc tiến hành các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được bảo đảm vì nhiều lý do khác nhau. Hoạt động của đội ngũ công chức tư pháp phụ thuộc vào nguồn kinh phí được duyệt cấp hằng năm nên đã gặp không ít khó khăn trong khi thực thi nhiệm vụ của mình. Do 37,89% số công chức tư pháp cơ sở chưa được đào tạo theo đúng tiêu chuẩn chức danh (trung cấp luật) nên không được hưởng lương theo ngạch, bậc công chức cơ sở mà chỉ được hưởng hệ số lương bằng 1,09 mức lương tối thiểu theo quy định.
Những bất cập nói trên đã ảnh hưởng nhất định đến hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, vì thế, cần có những giải pháp mang tính tổng thể nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tế.
Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tư pháp cơ sở ở Quảng Trị
“Công chức tư pháp cơ sở ở Quảng Trị được giao gần như tất cả công việc chuyên môn nghiệp vụ thuộc lĩnh vực tư pháp trên địa bàn cơ sở. Sự bất cập giữa khối lượng công việc và chất lượng đội ngũ cán bộ là một trong những nguyên nhân về sự yếu kém trong khả năng nắm bắt, phân tích, xử lý tình hình”.
Một là, tiến hành điều tra, khảo sát, thống kê về số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ công chức tư pháp cơ sở nhằm nắm một cách cụ thể, chính xác số công chức đủ tiêu chuẩn và không đủ tiêu chuẩn theo Nghị định số 114/2003/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ. Trên cơ sở đó, xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ công chức tư pháp cơ sở một cách cơ bản cả trước mắt và lâu dài với những chỉ tiêu phấn đấu cụ thể cho mỗi giai đoạn nhằm nâng cao tỷ lệ công chức tư pháp đương chức đạt chuẩn. Trường hợp thiếu một hoặc hai tiêu chuẩn (trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ) và tuổi đời trên 50 đối với nam, trên 45 đối với nữ thì giải quyết theo chế độ nghỉ hưu hoặc giải quyết theo chế độ nghỉ thôi việc, hưởng chế độ một lần (chưa đủ năm công tác và chưa đủ năm đóng bảo hiểm xã hội). Trường hợp còn trong độ tuổi làm việc lâu dài nhưng chưa đủ trình độ đầu vào của các lớp trung cấp luật thì cần có quy hoạch đào tạo với các loại hình thích hợp, kể cả kết hợp quá trình bổ túc học vấn phổ thông với đào tạo chuyên môn pháp lý.
Chú trọng phát triển nguồn cán bộ kế cận, nguồn nhân lực đã được đào tạo luật để bổ sung kịp thời do thay thế tự nhiên, tinh giản biên chế hoặc luân chuyển cán bộ. Cần phát triển nguồn cán bộ kế cận tại chỗ là người địa phương ngay từ bậc học phổ thông; trong đó, ưu tiên lựa chọn con em cán bộ, gia đình có công với cách mạng; đồng thời mở rộng đối tượng quy hoạch là bộ đội xuất ngũ, cán bộ thôn, bản, sinh viên chưa có việc làm.
Hai là, tăng cường và đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp cơ sở. Trong điều kiện có thể, gắn chặt hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng với công tác quy hoạch, sử dụng nhằm giảm thiểu tình trạng lãng phí về thời gian, tiền của. Đa dạng hóa công tác đào tạo, bồi dưỡng về hình thức, quy mô, thời gian cho phù hợp với thực tế và yêu cầu của địa phương. Cần quan tâm tới các hình thức bồi dưỡng ngắn hạn về những kỹ năng, tri thức nhất định để đáp ứng nhu cầu công việc trước mắt đối với số công chức chưa đủ tiêu chuẩn và chưa có điều kiện tham gia các hệ tập trung chính quy.
Khung chương trình và tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên cho công chức tư pháp cơ sở cần thiết kế lại cho phù hợp, thiết thực. Nội dung chương trình cần bảo đảm một tỷ lệ thích hợp giữa tri thức lý luận với tri thức chuyên môn; bảo đảm tính hệ thống, tính lý luận đồng thời với tăng tính thực tiễn, ứng dụng; cần chú trọng hơn về kỹ năng, thao tác xử lý công việc hằng ngày ở cơ sở.
Ba là, tăng cường tính chuyên nghiệp, sự ổn định của đội ngũ công chức tư pháp cơ sở. Điều này đòi hỏi sự nhận thức đầy đủ hơn và một cam kết chính trị mạnh mẽ hơn từ phía lãnh đạo địa phương trong việc sử dụng ổn định, đúng người, đúng việc đối với công chức tư pháp. Việc xã hội hóa một số hoạt động hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp thời gian gần đây có thể là lời giải cho bài toán giảm tải công việc. Thực tế cho thấy, đây là một hướng đi đúng và thiết thực, cần được đẩy mạnh hơn trong tiến trình cải cách tư pháp và cải cách hành chính.
Bốn là, chế độ chính sách hợp lý, thỏa đáng sẽ khuyến khích công chức tư pháp cơ sở phát huy tính tích cực, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, toàn tâm toàn ý với công việc và không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác. Chế độ, chính sách này cần có tính đồng bộ và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
Tỉnh cần dành một khoản kinh phí hợp lý đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp cơ sở và xem đó là nhiệm vụ thường xuyên, ổn định và lâu dài. Ngoài ra, cần có thêm chế độ, chính sách đãi ngộ đặc biệt như “chiêu hiền đãi sĩ”, “thu hút chất xám” bên cạnh chính sách đãi ngộ tại chỗ người đương chức, nhằm thu hút những người có tài, có đức về cơ sở công tác trong lĩnh vực tư pháp và tham gia vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Cần dành một khoản kinh phí thỏa đáng để đầu tư mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật như tủ sách pháp luật, loa đài, băng-rôn, khẩu hiệu.../.
Thông cáo số 8, kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XII  (29/05/2010)
Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc (*)  (29/05/2010)
Tổ chức trọng thể mừng Ðại lễ Phật đản năm 2010, Phật lịch 2554  (29/05/2010)
Thông cáo số 7 Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XII  (27/05/2010)
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng hội kiến Tổng thống Nhà nước Pa-le-xtin Ma-mút Áp-bát  (27/05/2010)
Vì một khu vực ASEAN phục hồi bền vững  (27/05/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm