Tinh thần đại thắng mùa Xuân 1975 và khát vọng phát triển đất nước
TCCS - Đại thắng mùa Xuân 1975 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trong những trang vàng chói lọi nhất, kết tinh tinh thần bất khuất, lòng dũng cảm của dân tộc can trường qua 30 năm đấu tranh (1945 - 1975), chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, mở ra thời kỳ Việt Nam độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Những bài học kinh nghiệm quý báu từ đại thắng mùa Xuân 1975 có ý nghĩa sâu sắc để vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Một chiến công vĩ đại trong thế kỷ XX của dân tộc Việt Nam
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với sự kiện Quân giải phóng miền Nam cắm cờ trên nóc dinh Độc lập (nay là Hội trường Thống nhất) vào ngày 30-4-1975, đã đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam là hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của quân và dân ta. Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân Việt Nam đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ (1954 - 1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm (1945 - 1975) cả dân tộc kiên cường chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước; chấm dứt sự thống trị hơn một thế kỷ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, non sông thu về một mối... Thắng lợi đó đã góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(1).
Chiến thắng vĩ đại của đại thắng mùa Xuân 1975 là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết và quan trọng nhất là do có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hoàn cảnh chia cắt đất nước, hai chế độ chính trị khác nhau, Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Đường lối đó là, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Theo đó, tại Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960) đã xác định, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với toàn bộ cách mạng Việt Nam và thống nhất nước nhà; cách mạng miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ chủ trương trên, Đảng đã phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân “toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng cao thắng quân địch có số đông, lấy trang bị kỹ thuật ít hơn, kém hiện đại đánh thắng quân địch có kỹ thuật dồi dào và hiện đại hơn; là nghệ thuật đánh địch trên thế mạnh, thế chủ động, thế bất ngờ”(2).
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3-1965), lần thứ 12 (tháng 12-1965) khóa III của Đảng đã đề ra đường lối chống Mỹ, cứu nước trên cả nước, xác định đây là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc, giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết và liên tục tiến công, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đảng ta đã chỉ đạo, bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt, tập trung lực lượng hai miền, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh. Kiên trì thực hiện kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị. Thực hiện chủ trương đó, từ năm 1967, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương chủ động mở mặt trận đấu tranh ngoại giao, tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và quân sự. Giữ vững quan điểm tiến công, Đảng đã lãnh đạo sử dụng phương pháp tổng công kích, đánh hiểm, bất ngờ, đánh đồng loạt vào cơ quan đầu não của kẻ thù, điển hình như cuộc Tổng công kích mùa Xuân năm 1968, đánh thẳng vào lực lượng hơn 50 vạn quân Mỹ, hàng chục vạn quân đồng minh và hơn 70 vạn quân Việt Nam Cộng hòa. Tháng 1-1970, Đảng chủ trương phối hợp quân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đánh thắng các cuộc hành quân “tìm diệt” của quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Năm 1972, Đảng lãnh đạo mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai với đỉnh cao là trận “Điện Biên Phủ trên không”; buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đám phán ký hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1-1973). Từ tháng 10 đến tháng 12-1974, Đảng chủ trương giải phóng miền Nam trong năm 1975 - 1976. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên (3-1975) và chiến dịch Huế - Đà Nẵng (3-1975), Bộ Chính trị nhận định, thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam và đã đưa ra quyết định phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975. Từ ngày 26 đến ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh mở ra và toàn thắng. Các tỉnh còn lại của Nam Bộ, quân và dân ta đã nhất tề nổi dậy tiến công. Ngày 2-5-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã thực hiện những cuộc tiến công độc đáo, sáng tạo điển hình, hiếm có trong lịch sử chiến tranh thế giới.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đã chứng minh cho lòng yêu nước nồng nàn, sự đoàn kết muôn người như một của nhân dân Việt Nam; sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo.
Ý nghĩa sâu sắc của đại thắng mùa Xuân 1975 với công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ngày nay
Những kinh nghiệm quý báu từ đại thắng mùa Xuân 1975 có ý nghĩa sâu sắc, để vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay:
Thứ nhất, Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn và không ngừng bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Thắng lợi của mùa Xuân 1975 lịch sử và công cuộc đổi mới hiện nay trước hết đều do Đảng ta có đường lối cách mạng đúng đắn. Do đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Kiên định, không ngừng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn... Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất lượng công tác hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hoá, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện”(3).
Thứ hai, làm tốt công tác tư tưởng, phát huy cao độ sức mạnh chính trị, văn hóa, tinh thần của toàn dân tộc. Với sức mạnh của cường quốc kinh tế, quân sự lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, với 5 đời tổng thống kế nhiệm nhau, thay đổi 4 chiến lược chiến tranh: Chiến tranh đơn phương, Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ và Việt Nam hóa chiến tranh, Chính phủ Mỹ đã chi gần 700 tỷ USD, huy động 6 triệu lượt binh sĩ, sử dụng khoảng 15.350.000 tấn bom, đạn, hàng chục triệu lít chất độc diệt cỏ và phát quang, trong đó phần lớn là chất độc da cam..., nhưng cuối cùng Mỹ vẫn thất bại. Với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(4), Đảng đã tạo niềm tin và sức mạnh chính trị - tinh thần động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đi tới thắng lợi.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, mỗi cấp ủy, đảng viên cần “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước”(5). Trong thực tiễn công tác, cấp ủy các cấp cần nắm bắt kịp thời, dự báo đúng đắn và xử lý các vấn đề về tư tưởng hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng để định hướng tốt dư luận, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội. Tăng cường đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh của nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp. Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy cao độ sức mạnh truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, tạo thành một khối đoàn kết, thống nhất. Đảng đã huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, giành chiến thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đảng tổ chức và kết hợp thế, lực và thời cơ, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, gắn đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp tiêu diệt địch, giành quyền làm chủ của nhân dân, từng bước kéo Mỹ xuống thang chiến tranh. Trong cuộc kháng chiến, Đảng ta đã lãnh đạo toàn quân và toàn dân phải dựa vào sức mạnh của mình là chính, phát huy sức mạnh bên trong là chủ yếu, đồng thời phải đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế. Liên minh đoàn kết chiến đấu ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia; sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, đã tạo nên một mặt trận quốc tế rộng lớn ủng hộ, củng cố quyết tâm đánh Mỹ của nhân dân Việt Nam. Nói về vấn đề này, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận định: “Có lẽ hiếm có ở đâu, chiến tranh nhân dân trong thực tế lại đúng với tên gọi của nó như vậy, thực sự sâu rộng trong nhân dân và thực sự vô địch như nhân dân”(6). Vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng định trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng nhân dân và phát huy chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, cần phải “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(7). Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, phản biện, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, cần chú trọng việc khơi dậy và phát huy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mỗi người dân Việt Nam; luôn giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; đồng thời coi trọng việc củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, với phương châm Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Thứ tư, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng. Ngay sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần III của Đảng, từ năm 1961, Đảng đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ, sau đó xây dựng công khai Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã phát huy vai trò tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ đảng và các cấp chỉ huy quân đội cả nước, lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cách mạng ở miền Nam... Những kinh nghiệm về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở hai miền đất nước trước và trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 để lại nhiều bài học quý cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(8).
Kỷ niệm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4) hôm nay, mỗi người Việt Nam thêm tự hào, biết ơn các anh hùng, liệt sĩ, các thế hệ cha ông đã chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước; tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, về tinh thần kiên cường, bất khuất, mưu trí, sáng tạo của dân tộc, của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, để càng trân trọng những thành quả đạt được của đất nước qua hơn 36 năm đổi mới. Tinh thần Ngày chiến thắng 30-4 cổ vũ toàn Đảng, toàn quân và dân ta thêm động lực, niềm tin, với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, vững bước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế./.
---------------------------
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 471
(2) Tổng kết kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 16
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 180
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 131
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 181
(6) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, tr. 32
(7) , (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 192, 199
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam ở Anh trong thập niên 60 của thế kỷ XX: Những giá trị lịch sử  (18/03/2023)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển