TCCS - Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa đầu tiên (ngày 6-1-1946) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa là thành quả to lớn, vừa là yêu cầu cấp bách của việc xây dựng và hoàn thiện một nhà nước cách mạng. Quốc hội ra đời trong khói lửa đấu tranh gian khổ của toàn dân tộc với ý chí bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và đại đoàn kết toàn dân là một thành công, một thắng lợi vĩ đại, vì thế, nó có ý nghĩa là một quốc hội lập quốc, lập nên một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

1 - Quốc dân Đại hội Tân Trào - một “Quốc hội lâm thời”

Thông lệ, sau khi nhân dân cả nước bầu ra đại biểu Quốc hội khóa mới, hình thành lên cơ quan lập pháp (Quốc hội), sau đó Quốc hội thay mặt nhân dân mới tổ chức ra cơ quan hành pháp (Chính phủ) và các cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát) theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nhưng Cách mạng Tháng Tám thành công chỉ sau ít ngày, chúng ta đã có ngay Chính phủ lâm thời đầu tiên gồm 15 vị do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đến ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời lại tự cải tổ thành Chính phủ liên hiệp lâm thời mở rộng, tiếp tục thu hút thêm một số thành viên ngoài Việt Minh; số lượng thành viên Chính phủ gồm 18 người vẫn do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Điều đó có nghĩa là, về hình thức, chúng ta chưa có cơ quan lập pháp mà đã có cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh đã dự liệu mọi công việc trọng đại một cách nhịp nhàng trong những thời điểm “đêm trước, đêm sau” của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, trong đó có sự kiện mà sử sách còn lưu truyền muôn thủa, đó là Quốc dân Đại hội Tân Trào - tư tưởng chiến lược về thành lập Quốc hội.

Tháng 10-1944, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nói: “... chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy phải do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”(1). Theo tư tưởng của Người, chỉ 10 tháng sau, vào ngày 16-8-1945, Đại hội đại biểu quốc dân đã được tiến hành tại đình làng Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo... và Việt kiều ở Thái Lan, Lào. Hôm đó tuy hãy còn rất mệt vì vừa trải qua một trận ốm “thập tử nhất sinh”, nhưng lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn đến dự và chỉ đạo Đại hội. Đây là lần đầu tiên Bác ra mắt các đại biểu khắp cả ba miền đất nước và đại biểu Việt kiều. Đại hội đã nghe đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương báo cáo về hai nhiệm vụ trọng tâm nhất là tiến hành Tổng khởi nghĩa và bầu ủy ban Giải phóng dân tộc. Đại hội đã nhất trí cao chủ trương của Đảng là Tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc và thi hành mười chính sách lớn của Việt Minh...

Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi to lớn, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19-8), Huế (ngày 23-8), Sài Gòn (ngày 25-8). Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân. Ngày 25-8-1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Giải phóng dân tộc do Quốc dân Đại hội Tân Trào bầu ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau ba tháng lại cải tổ thành Chính phủ liên hiệp lâm thời mở rộng... Rõ ràng là “Quốc dân Đại hội Tân Trào có ý nghĩa là một Quốc hội lâm thời, hay một tiền Quốc hội, bởi vì cách mạng chưa thành công. Quốc dân Đại hội Tân Trào tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời của chế độ cộng hòa dân chủ của nước ta, cho một chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi cách mạng đã thành công”(2). Với sự kiện lịch sử thần diệu đó, không chỉ những nhà lãnh đạo cách mạng, những người làm công tác lập pháp mà toàn thể nhân dân ta hoàn toàn vui sướng với niềm tự hào về sự sáng suốt, anh minh của Đảng ta, đứng đầu là Bác Hồ kính yêu, là đã dự liệu chuẩn xác và tiến hành xây dựng một nhà nước theo đúng luật pháp và thông lệ quốc tế ngay từ khi chưa nắm được chính quyền và ngay từ những ngày tháng chính quyền còn ở giai đoạn “trứng nước”, non trẻ với muôn vàn khó khăn chồng chất.

2 - Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chính thức khóa đầu tiên

Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945, tức là sau Lễ Tuyên bố độc lập một ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v..”(3). Tiếp đó, ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 14-SL về cuộc Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội để thành lập một cơ quan lập pháp chính thống (Quốc hội) của nước Việt Nam mới. Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử, các ban bầu cử đã được thành lập cho tới tận xã, làng, bản, ấp do các ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm. Danh sách cử tri và các ứng cử viên được niêm yết công khai. Nhân dân sôi nổi trao đổi, tranh luận, nhằm lựa chọn đúng đắn những người xứng đáng nhất đại diện cho mình và hạn chế tới mức thấp nhất tình huống những kẻ cơ hội, tranh giành quyền lực, chức tước làm tổn hại cách mạng.

Càng gần đến ngày Tổng tuyển cử, không khí trong cả nước càng sôi nổi. Một số địa phương (đa phần là ở phía Nam) do lệnh lùi ngày bầu cử không kịp đến nên vẫn tiến hành Tổng tuyển cử như kế hoạch đã định là vào ngày 23-12-1945. ở những nơi đó, Tổng tuyển cử vẫn diễn ra bình thường và giành thắng lợi tưng bừng, làm cho không khí chính trị trong cả nước sôi động hướng tới ngày 6 tháng Giêng năm 1946. Uy tín của Đảng, của Bác Hồ ngày càng dâng cao. ở Hà Nội có 118 vị chủ tịch các ủy ban nhân dân và tất cả các giới làng, xã đã công bố một bản kiến nghị: “Yêu cầu Cụ Hồ Chí Minh được miễn phải ứng cử trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới vì Cụ đã được toàn dân suy tôn làm Chủ tịch vĩnh viễn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Bác hết sức trân trọng tấm lòng người dân và đã gửi thư cho đồng bào ngoại ô với nội dung như sau: “Tôi rất cảm động thấy toàn thể đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng quá yêu tôi, mà quyết nghị tôi không phải ứng cử trong kỳ Tổng tuyển cử sắp tới.

Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định...

Tôi xin thành thực cảm tạ toàn thể đồng bào nam, phụ, lão, ấu khu vực ngoại thành Hà Nội”(4).

Ngày 3-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp của Chính phủ liên hiệp lâm thời để kiểm tra lần cuối các công việc chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử; và ngày 5-1-1946, Bác ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, trong đó có đoạn: “Ngày mai tất cả các bạn cử tri, đều phải nhớ đi bầu cử. Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”. Chiều hôm đó Bác đã tham dự cuộc mít-tinh lớn của hơn hai vạn nhân dân Thủ đô tại Đông Dương học xá (nay là Trường Đại học Bách khoa), nhiệt liệt chào mừng Tổng tuyển cử.

Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã được tiến hành sôi nổi ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tại Hà Nội, đúng 7 giờ sáng, tiếng chuông, tiếng trống ở các nhà thờ, các chùa chiền vang lên khắp các phố phường, kéo dài tới 15 phút, báo hiệu giờ Tổng tuyển cử bắt đầu. Hà Nội tổ chức Tổng tuyển cử khá chu đáo, diễn ra với khí thế ngập tràn phấn khởi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với hàng chục vạn cử tri đã đi làm nghĩa vụ công dân. Người đã bầu cử ở phòng bỏ phiếu tại nhà số 10 phố Hàng Vôi (nay thuộc phố Lý Thái Tổ), sau đó Người còn đi thăm nhiều nơi bỏ phiếu ở các phố Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Trống, Thụy Khuê, Ô Đông Mác...

Có thể khẳng định, Tổng tuyển cử là một cuộc thử thách máu lửa đối với cả nước mà nhân dân ta đã anh dũng vượt qua và chiến thắng. Ngay tại Thủ đô, ở khu Ngũ Xã, bọn phản động đã huy động một lực lượng khá đông có trang bị súng liên thanh trực tiếp ngăn cản cử tri đi bỏ phiếu; chúng cấm treo cờ đỏ sao vàng, cấm đặt các hòm phiếu... Nhưng nhân dân không hề nao núng, vẫn làm nghĩa vụ công dân khá đầy đủ, cụ thể là có 172.765 trên tổng số 187.880 cử tri (91,95%) của cả 74 khu phố nội đô và 118 thôn, làng ngoại ô đã đi bỏ phiếu. Trong số 74 ứng cử viên, có 6 người trúng cử đại biểu Quốc hội. Người trúng cử với số phiếu thấp nhất cũng đạt 52,5% số phiếu hợp lệ; người trúng cử với số phiếu cao nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh (98,4%).

Ở phía Bắc, một vài nơi đã xảy ra đổ máu. Tại Hải Phòng, ở các khu vực bỏ phiếu như Nhà hát lớn, phố Tràng Kênh..., quân Tưởng xông vào cướp súng của tự vệ đang bảo vệ hòm phiếu, chúng ta bắn cảnh cáo, chúng huy động lực lượng đến cướp hòm phiếu; công an, tự vệ ta phải giằng co để giữ cho được hòm phiếu. Chúng đã bắt của ta 16 công an, 40 tự vệ và hành hung rất dã man nhiều người. Trước tình hình đó, chúng ta đã kịp thời huy động hàng nghìn dân chúng tiến hành mít-tinh, biểu tình, thị uy, phản đối kịch liệt, buộc chúng phải thả những người đã bị bắt. Mặc dù vậy, Hải Phòng vẫn có tới 96% cử tri đi bỏ phiếu.

Ở các tỉnh, thành phố phía Nam, nhất là ở Nam Bộ, cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra dưới đạn bom rất ác liệt của quân thù, vì ngay từ cuối tháng 10-1945, sau khi được tăng viện, thực dân Pháp đã đánh phá khắp các tỉnh Nam Bộ, đổ bộ lên Nha Trang, đánh rộng ra các tỉnh Nam Trung Bộ và các vùng rừng núi Tây Nguyên, với dự tính trong một thời gian ngắn phải thôn tính cho được từ vĩ tuyến 16 trở vào. Cuộc Tổng tuyển cử gặp nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng nhân dân miền Nam đã thể hiện ý chí độc lập, thống nhất cao, kiên quyết kháng chiến chống lại thực dân Pháp xâm lược, ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc Việt Nam. Bất chấp bom đạn của thực dân Pháp, nhân dân vẫn đi bỏ phiếu rất đông. Nhiều nơi, cử tri phải đánh đổi cả xương máu để thực hiện cho được quyền tự do, dân chủ của mình.

Tại Sài Gòn - Chợ lớn, quân Pháp đã chiếm đóng toàn bộ thành phố và các vùng lân cận. Tiếng súng kháng chiến đã nổ ra dưới nhiều hình thức: diệt tề trừ gian, tập kích, đốt phá kho tàng của giặc... Cuộc Tổng tuyển cử ở đây đã diễn ra trong sự lùng ráp, khủng bố gắt gao của quân thù. ủy ban Hành chính thành phố đã phải chuyển ra ngoại ô phía tây nam nhưng vẫn bám sát chỉ đạo nhân dân nội ô và ngoại ô tiến hành Tổng tuyển cử. Không có nơi đặt hòm phiếu cố định, hàng trăm hòm phiếu được lưu chuyển đến từng ngõ, từng nhà cho đồng bào bỏ phiếu; 42 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh anh dũng trong khi làm nhiệm vụ Tổng tuyển cử. Tại Nha Trang, máy bay Pháp ném bom khủng bố nhân dân, làm 4 người chết, 12 người bị thương. Tại Tân An, máy bay địch xả đạn vào nơi cử tri đang bỏ phiếu, làm 14 người chết, nhiều người bị thương, nhiều nơi phải bỏ phiếu ban đêm, vậy mà có đến 90% cử tri đã đi bỏ phiếu. Ở Mỹ Tho, máy bay địch rà theo kênh rạch bắn phá suốt ngày, nhưng tại Mỹ Hạnh Đông, cán bộ ta vẫn chèo ghe, xuồng, đánh trống, chở hòm phiếu len lỏi vào các kênh mương, rạch nhỏ nơi đồng bào tản cư để cử tri bỏ phiếu(5)... Tại Tây Nguyên, hai ngày trước ngày bầu cử, thực dân Pháp đã huy động máy bay liên tục ném bom lửa xuống các làng Ra Đê và tấn công nhiều làng khác cách Buôn Ma Thuột 19km...

Có thể nói, ở các tỉnh, thành phố phía Nam, trừ tỉnh Tây Ninh, nơi chiến sự xảy ra rộng khắp và vô cùng ác liệt, trước ngày bầu cử, một trong hai ứng cử viên đã bị địch giết hại nên không thực hiện được cuộc bầu cử, còn tất cả các tỉnh, thành phố đều tiến hành cuộc Tổng tuyển cử với tuyệt đại bộ phận cử tri đi bỏ phiếu, trong đó nhiều tỉnh đạt số cử tri đi bầu rất cao, như Sa Đéc là 93,54%, Bạc Liêu: 90,77%...

Nhìn chung, trong cuộc Tổng tuyển cử, ở 71 tỉnh, thành phố trong cả nước đã có tới 89% tổng số cử tri đi bỏ phiếu, đạt mức bình quân là 80%, nhiều nơi đạt cao, tới 95%. Có một vài nơi phải bầu bổ sung, còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cả nước đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau, 43% không đảng phái, 87% đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng, 10 đại biểu là phụ nữ, 34 đại biểu là người dân tộc thiểu số. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập đã ra đời.

Chúng ta không thể không nhắc tới một sự kiện quan trọng trong việc thành lập Quốc hội khóa đầu tiên. Đó là một sách lược tuyệt vời của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chính sách đoàn kết, tập hợp lực lượng, làm dịu tình hình đang hết sức căng thẳng. Sáng ngày 2-3-1946, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Tổng tuyển cử bầu ra được khai mạc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời khai mạc kỳ họp. Bác nêu lên thắng lợi và ý nghĩa lớn lao của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, trong đó nhấn mạnh: cuộc Tổng tuyển cử đã “tỏ cho thế giới, cho toàn dân biết là chúng ta đoàn kết nhất trí”. Sau đó, Người đề nghị với Quốc hội mở rộng số đại biểu Quốc hội thêm 70 người nữa; 70 người đó dành cho các vị ở hải ngoại về là Việt Nam quốc dân đảng (Việt quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt cách). Tất cả các đại biểu dự họp đều tán thành đề nghị của Bác. Như vậy, Quốc hội khóa I gồm 333 đại biểu được nhân dân bầu ra và 70 đại biểu được mở rộng thêm không qua bầu cử; tổng cộng là 403 đại biểu.

3 - Nhìn lại những bài học của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên

- Cuộc Tổng tuyển cử lập ra Quốc hội đầu tiên vừa là thành quả to lớn, vừa là yêu cầu cấp bách của việc xây dựng và hoàn thiện một nhà nước cách mạng. Quốc hội ra đời trong khói lửa đấu tranh gian khổ của toàn dân tộc với ý chí bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và đại đoàn kết toàn dân là một thành công, một thắng lợi vĩ đại, do đó, nó có ý nghĩa là một quốc hội lập quốc (lập nên một nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á).

- Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra trong thời khắc nhân dân ta vừa thoát khỏi kiếp nô lệ của cả nghìn năm phong kiến và gần trăm năm thuộc địa, đế quốc Pháp lại đang gây chiến hòng cướp nước ta, đô hộ dân ta một lần nữa. Trong điều kiện ấy mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nêu quyết tâm Tổng tuyển cử và Tổng tuyển cử đã thắng lợi to lớn, vang dội - một sự kiện hiếm có trong lịch sử cách mạng thế giới. Điều này khẳng định rằng, Đảng với dân là một (ý Đảng, lòng dân). Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoàn toàn tin tưởng vào ý chí, nguyện vọng độc lập dân tộc và sự đồng lòng nhất trí của toàn dân; và toàn dân tộc ta tuyệt đối tin tưởng vào sự chèo lái, lãnh đạo tài trí của Đảng và Bác kính yêu, đặc biệt là trong những lúc hiểm nghèo, “ngàn cân treo sợi tóc” như bối cảnh của cuộc Tổng tuyển cử. Như một sự kiện đã nói ở trên, khi Việt quốc và Việt cách gây căng thẳng và mưu đồ lật đổ Chính phủ cách mạng, Quốc hội đã chấp thuận cho 70 người (50 người của Việt quốc, 20 của Việt cách) là đại biểu Quốc hội, không qua bầu cử, nhưng như đã dự tính trước là chính họ sẽ tự đào thải họ, chỉ ít lâu sau, số đông trong họ đã chạy theo giặc hoặc đào nhiệm nên đã bị Quốc hội truất quyền đại biểu (Việt quốc chỉ còn duy nhất một người đủ tư cách đại biểu). Những đại biểu do dân bầu ra tuyệt đại bộ phận đã xứng đáng với sự tín nhiệm của đồng bào. Một số đại biểu đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, hy sinh anh dũng trước họng súng quân Pháp, như Lý Chính Thắng, đại biểu Sài Gòn - Chợ Lớn; Thái Văn Lung, đại biểu Gia Định; Nguyễn Văn Luyện, đại biểu Hà Nội; Nguyễn Văn Tố, đại biểu Nam Định, Trưởng ban đầu tiên của Ban Thường trực Quốc hội; Lê Thế Hiếu, đại biểu Quảng trị...

- Quốc hội đầu tiên là Quốc hội độc lập dân tộc, Quốc hội thống nhất đất nước và là Quốc hội đoàn kết toàn dân. Quốc hội đã bao hàm khá đầy đủ các đại biểu cả ba miền Bắc, Trung, Nam; đại diện của hầu hết các thế hệ những người Việt Nam yêu nước từ già đến trẻ, các tầng lớp xã hội như công nhân, nông dân, nhân sĩ, trí thức, doanh nhân, các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ, các tôn giáo (Thiên chúa giáo, Phật giáo, đạo Cao Đài...); các dân tộc Mường, Tày, Nùng, Thái, Mèo, Ba Na, Ca Tu, Ê Đê, Gia Rai, Khmer, Hoa... Quốc hội còn bao gồm những người không đảng phái và những người của các đảng phái chính trị, xã hội khác nhau, những người vốn là quan lại của chế độ cũ... Bài học đại đoàn kết có thể coi là bài học cơ bản, xuyên suốt từ khi Đảng ta ra đời, được phát huy cao độ trong Tổng tuyển cử và được nhân rộng cho đến bây giờ và mai sau.

- Cuộc Tổng tuyển cử thắng lợi là một mốc son đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của cách mạng Việt Nam nói chung, của công tác tổ chức và cán bộ nói riêng. Điều đó đã mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta - thời kỳ đất nước có quốc hội, có chính phủ thống nhất, có một bản hiến pháp tiến bộ và có cả một hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương, có đầy đủ cơ sở pháp lý đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội cũng như đối ngoại. Nhà nước được quốc dân giao phó cho nhiệm vụ cực kỳ nặng nề là điều hành đất nước, kháng chiến, kiến quốc và ngoại giao trên trường quốc tế.

- Cũng như bài học đại đoàn kết, sự lãnh đạo vững chắc của Đảng là bài học thực tế có tính nguyên tắc và vĩnh cửu. Đảng đã biết dựa hẳn vào dân, bắt rễ sâu trong lòng dân tộc, do đó đã đáp ứng được khát vọng độc lập dân tộc, tự do, dân chủ của nhân dân. Với sự lãnh đạo của lãnh tụ kiệt xuất Hồ Chí Minh và thông qua Mặt trận Việt Minh, một tổ chức rộng lớn do chính Đảng tổ chức ra và lãnh đạo, Đảng vẫn giữ vững và phất cao ngọn cờ lãnh đạo toàn dân vượt qua mọi khó khăn, không quản ngại hy sinh gian khổ, thực hiện Tổng tuyển cử đại thành công. Từ đó đến nay, Đảng ta vẫn không ngừng phát huy, nâng cao ý nghĩa, giá trị tốt đẹp của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên. Vừa qua, trong việc chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, Bộ Chính trị đã chỉ đạo: “Bảo đảm dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, thực sự là ngày hội của toàn dân... giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội khóa XII phải là những người yêu nước, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;...”.

Chúng ta tin chắc rằng, ý nghĩa và các bài học của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên cũng như sự lãnh đạo của Đảng trong mọi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong suốt 65 năm qua cũng sẽ được vận dụng triệt để trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII vào tháng 5-2011./.
 
---------------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t 3, tr 505

(2) Lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong cuốn “Quốc dân Đại hội Tân Trào”, Văn phòng Quốc hội xuất bản, Hà Nội, 1995, tr 27

(3) Văn kiện Đảng toàn tập, 1945 - 1947, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 8, tr 2

(4) Hồ Chí Minh: Sđd, tr 71

(5) Theo Báo Sự Thật, số ra ngày 10-1-1946