Nấc thang mới trong lịch sử 65 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc
TCCSĐT - Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, từ ngày 7-4 đến 10-4-2015. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tới Trung Quốc kể từ sau Đại hội XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chuyến thăm diễn ra vào dịp hai nước kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1950 - 2015).
Những dấu ấn của quan hệ hợp tác
Ngày 18-01-1950, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Lịch sử 65 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc cho thấy “quan hệ hữu nghị đoàn kết chiến đấu” giữa hai Đảng và nhân dân hai nước đã trải qua những năm tháng lâu dài, khó khăn gian khổ trong quá trình đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ của mỗi nước. Trong quá trình đó, sự nghiệp cách mạng của hai nước, vận mệnh của hai dân tộc, sứ mệnh lịch sử của hai Đảng đã gắn bó với nhau.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhân dân và quân đội Việt Nam đã có những hoạt động chi viện trong cuộc cách mạng của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Trên tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đã có những giúp đỡ quan trọng cho hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc trong suốt hai cuộc kháng chiến cứu nước, cũng như công cuộc xây dựng đất nước. Tình hữu nghị đoàn kết chiến đấu, hợp tác, hữu nghị đó không những góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước của nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc, mà còn góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và tiến bộ xã hội.
Tuy vậy, với những tác động của môi trường quốc tế phức tạp và tính toán chiến lược của nhiều phía, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã trải qua những năm tháng sóng gió, thậm chí đã có những đổ vỡ đáng tiếc ở những thời kỳ nhất định. Những khó khăn, thăng trầm đó đã được cả hai bên cố gắng vượt qua, đưa mối quan hệ hai nước vào dòng chảy chủ lưu: hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Từ sau khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1991 đến nay, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc với cơ sở bền vững truyền thống, đã được khôi phục và phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
Về hợp tác chính trị - ngoại giao
Tháng 11-1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc, đánh dấu chính thức việc bình thường hóa và mở ra một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước. Kể từ đó đến nay, lãnh đạo cấp cao hai nước thường xuyên tiến hành các chuyến thăm và làm việc để trao đổi những vấn đề trọng đại trong quan hệ giữa hai nước. Hai bên luôn nhấn mạnh, tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc là tài sản quý báu của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, cần được hết sức gìn giữ và không ngừng vun đắp; khẳng định sẽ cố gắng hết sức để đưa quan hệ hai nước ngày càng sâu sắc hơn, tin cậy hơn, cùng ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp đổi mới, cải cách mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Năm 1999, trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, lãnh đạo hai nước xác định phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ XXI. Tháng 12-2000, hai bên ký “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới”, đề ra những biện pháp cụ thể phát triển quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực. Năm 2002, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam và phát biểu với sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân nhấn mạnh: “phát triển mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phải lấy tin tưởng lẫn nhau làm cơ sở, ổn định lâu dài là tiền đề, láng giềng hữu hảo là sự bảo đảm, hợp tác toàn diện là mấu chốt, cùng nhau phát triển phồn vinh là mục tiêu”. Năm 2005, hai bên thỏa thuận đưa quan hệ hai nước phát triển theo phương châm “bốn tốt”: “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Đặc biệt, tháng 5-2008, trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, hai bên thống nhất nâng quan hệ hai nước lên thành “quan hệ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện”, đồng thời nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước.
Đối với các vấn đề quốc tế, quan điểm xuyên suốt của hai nước là tôn trọng tính đa dạng, lịch sử văn hóa, chế độ xã hội, mô hình phát triển, các vấn đề nội bộ của các nước cũng như các nền văn minh trên thế giới, phản đối chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền trong các công việc quốc tế; cam kết có những đóng góp cho hòa bình, ổn định, phát triển ở châu Á, thế giới và sự phát triển, phồn vinh, tiến bộ của nhân loại. Hai nước đều mong muốn thiết lập một trật tự thế giới, công bằng và hợp lý hơn, mong muốn các nước cùng phát triển, phồn vinh. Sự thống nhất về lý tưởng, con đường đi đúng đắn, được chứng minh bằng chính thực tiễn hiện tại là điểm chung vô cùng quan trọng mà hai nước cần thiết phải phát huy và giữ vững.
Hợp tác kinh tế không ngừng phát triển
Về thương mại, kim ngạch thương mại hai nước không ngừng phát triển trong hơn hai thập niên qua, đặc biệt là trong những năm đầu thế kỷ XXI đến nay. Trung Quốc luôn là bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam, đồng thời, Việt Nam cũng là một trong những đối tác thương mại quan trọng của Trung Quốc trong các nước ASEAN. Trao đổi thương mại của hai nước không ngừng gia tăng, vượt qua các kế hoạch và dự báo của hai bên trong mỗi giai đoạn. Năm 1991, kim ngạch thương mại hai bên chỉ đạt 32 triệu USD. Năm 2013, con số này tăng trên 49,2 tỷ USD; năm 2014, đạt 58,87 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 14,91 tỷ USD, nhập khẩu 43,87 tỷ USD. Dự kiến kim ngạch thương mại của hai bên sẽ đat 60 tỷ USD vào năm 2015. Nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc tiếp tục tăng, tuy nhiên cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có chuyển biến theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng hàng công nghiệp chế tạo, nông, lâm, thủy sản, giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng nguyên, nhiên liệu và khoáng sản.
Tháng 10-2011, nhân dịp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Trung Quốc, hai bên đã ký Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2016. Trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường vào năm 2013, hai bên nhất trí thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại với trọng tâm là hợp tác xây dựng một số dự án tiêu biểu có quy mô lớn về kết cấu hạ tầng, kết nối giao thông; tiếp tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thúc đẩy quan hệ thương mại phát triển cân bằng, lành mạnh, hoàn thành trước thời hạn mục tiêu kim ngạch thương mại đạt 60 tỷ USD vào năm 2015, đặt mục tiêu đạt 100 tỷ USD vào năm 2017; tăng cường phối hợp và hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, nhất là hợp tác trong việc phòng ngừa tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ quốc tế, giữ vững an ninh tiền tệ ở mỗi nước.
Về đầu tư trực tiếp, đến hết tháng 12-2014, Trung Quốc có 1.082 dự án đầu tư trực tiếp (FDI) tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký là 7,94 tỷ USD, đứng thứ 9/101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, chiếm 3% tổng vốn FDI đăng ký, bằng 1,4% vốn đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc.
Về viện trợ phát triển chính thức (ODA), các khoản vay ưu đãi mà Trung Quốc dành cho Việt Nam đã tăng lên mạnh mẽ và được hai nước ưu tiên sử dụng trong các lĩnh vực mà Việt Nam đang cần, như điện lực, khai khoáng, luyện kim, phân bón nông nghiệp, hóa chất, cơ khí. Chính phủ Trung Quốc cũng hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại trong việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội ở Trung Quốc; trao đổi các đoàn thanh, thiếu niên,... Đến hết tháng 12-2014, Trung Quốc đã cho Việt Nam vay 1,6 tỷ USD tập trung vào những lĩnh vực công nghiệp, khai khoáng, đường sắt, năng lượng, dệt may, hóa chất.
Năm 2010, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA hay CAFTA) chính thức đi vào hoạt động. Trong cơ chế hợp tác này, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc giữ vai trò quan trọng, mang tính trụ cột. Việt Nam với vị trí địa - chiến lược ở khu vực Đông Nam Á được coi là “cầu nối” trực tiếp, chiến lược quan trọng để Trung Quốc mở rộng và tiếp cận các nước ASEAN dựa trên tuyến đường bộ và đường biển. Phát huy đầy đủ vị thế đó là nhân tố then chốt của quan hệ kinh tế hai nước trong giai đoạn mới.
Mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực
Việt Nam và Trung Quốc tích cực triển khai mạnh mẽ các hoạt động hợp tác rộng rãi trên nhiều lĩnh vực khác, như giáo dục - đào tạo, an ninh - quốc phòng, giao lưu văn hóa, du lịch, biên giới lãnh thổ.
Về an ninh, quốc phòng, với việc hai bên thường xuyên trao đổi đoàn, tổ chức đối thoại cấp chiến lược về quốc phòng và an ninh nhằm tạo sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, hợp tác quốc phòng Việt Nam - Trung Quốc đã có nhiều bước tiến mạnh mẽ. Trong Đối thoại chiến lược quốc phòng - an ninh lần thứ hai (tháng 8-2011), hai bên thống nhất tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực, như tăng cường trao đổi đoàn, sớm hoàn thành đường dây nóng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc.
Về giáo dục - đào tạo, văn hóa và du lịch, trong 10 năm trở lại đây, hợp tác giáo dục - đào tạo hai nước phát triển mạnh mẽ. Hai nước đã ký kết nhiều hiệp định quan trọng về hợp tác đào tạo. Hiện nay, số lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại Trung Quốc là hơn 13.000 người, đứng thứ 2 trong tổng số hơn 60.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại nước ngoài. Số lượng lưu học sinh Trung Quốc, nhất là lưu học sinh các vùng Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Đông, học tập tại Việt Nam cũng ngày càng gia tăng. Trên 80 trường đại học của Việt Nam có quan hệ với các trường đại học Trung Quốc một cách thường xuyên, hiệu quả.
Hợp tác trên lĩnh vực văn hóa giữa hai bên cũng đạt được nhiều thành tựu, nhất là giao lưu văn hóa truyền thống, triển lãm hội họa, xuất bản, báo chí, điện ảnh,… Từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã cử hơn 300 đoàn đại biểu văn hóa sang Trung Quốc biểu diễn, khảo sát, học hỏi. Trung Quốc cũng cử hàng trăm đoàn giao lưu văn hóa hữu nghị với Việt Nam. Hai bên đang tích cực triển khai “Kế hoạch thực hiện Hiệp định Văn hóa Việt Nam -Trung Quốc giai đoạn 2013 - 2015”; thực hiện hiệu quả “Thỏa thuận về hợp tác thể dục thể thao”,…
Trung Quốc là thị trường nguồn du lịch lớn của Việt Nam. Hằng năm, có khoảng 1 triệu lượt người Việt Nam đi du lịch Trung Quốc, trong khi khách du lịch Trung Quốc vào Việt Nam đạt 1,9 triệu lượt người (năm 2013) và 1,94 triệu lượt người (năm 2014).
Về biên giới lãnh thổ, sau khi bình thường hóa quan hệ, năm 1993, hai bên ký “Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ”, tiến hành đàm phán về biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông. Tháng 02-2009, trên cơ sở tôn trọng lịch sử và xét đến hiện tại, hiệp thương thẳng thắn và lâu dài, hai nước hoàn thành việc cắm mốc biên giới trên bộ. Năm 2000, hai nước ký “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa” và “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ”, có hiệu lực từ năm 2004. Hiện nay, hai bên đang đẩy nhanh việc thực hiện “Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ”, thúc đẩy đàm phán về phân định khu vực ngoài cửa Vịnh (đã tiến hành 6 vòng đàm phán).
Về vấn đề Biển Đông, hai bên nhất trí thông qua đàm phán hòa bình để giải quyết các tranh chấp nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận, trên cơ sở Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002. Mặc dù có những quan điểm khác biệt, thậm chí có những lúc căng thẳng leo thang, nhưng sau đó hai bên đã cùng nhau cố gắng ổn định lại tình hình.
Để quan hệ hai nước phát triển bền vững
Trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc mặc dù còn tồn tại những bất đồng, và điểm khác biệt, song hợp tác và hữu nghị luôn là dòng chủ lưu, mang tính tất yếu trong sự phát triển quan hệ hai nước, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới ngày nay. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, để quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc được duy trì, hai bên cần:
Một là, nỗ lực giữ vững quan hệ láng giềng hữu nghị, ổn định lâu dài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là tất yếu. Xét đặc thù địa - chiến lược và những tương đồng về lịch sử, văn hóa, chế độ chính trị - xã hội giữa Việt Nam và Trung Quốc, việc duy trì quan hệ ổn định về chính trị, thúc đẩy hợp tác kinh tế vì lợi ích của mỗi nước, hòa bình, ổn định ở khu vực có vai trò quan trọng đặc biệt đối với cả hai nước.
Hai là, thực hiện phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh theo hướng tăng cường hợp tác, giảm thiểu bất đồng. Hợp tác không loại trừ đấu tranh, nhưng đấu tranh là để thúc đẩy hợp tác, và trong bất kỳ tình huống nào đều cố gắng tránh dẫn đến căng thẳng, đối đầu. Hai bên cần xuất phát từ lợi ích quốc gia để tìm kiếm, tranh thủ mọi cơ hội dù là nhỏ nhất nhằm thúc đẩy quan hệ trên những lĩnh vực mà hai bên có chung lợi ích, giảm thiểu tối đa bất đồng và cố gắng kiểm soát những nhân tố gây mất ổn định trong quan hệ song phương, đáp ứng cao nhất lợi ích chiến lược hiện nay là duy trì môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước ở mỗi nước.
Ba là, kiên trì thông qua đối thoại, các biện pháp hòa bình giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước, xử lý một cách bình tĩnh, mềm dẻo, có tình, có lý, sử dụng nhiều kênh tiếp xúc theo phương châm “cố gắng thu hẹp bất đồng, hết sức tránh đối đầu và đổ vỡ quan hệ”.
Bốn là, kiên trì thông qua đối thoại, các biện pháp hòa bình giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước, xử lý một cách bình tĩnh, mềm dẻo, có tình, có lý, sử dụng nhiều kênh tiếp xúc theo phương châm “cố gắng thu hẹp bất đồng, hết sức tránh đối đầu và đổ vỡ quan hệ”.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, cả hai Đảng, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều đứng trước những thời cơ và thách thức mới trong công cuộc đổi mới, cải cách mở cửa và phát triển đất nước. Việt Nam đang ra sức nỗ lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Trung Quốc đang đẩy mạnh triển khai mục tiêu xây dựng xã hội khá giả toàn diện vào năm 2020. Hơn bao giờ hết, hai bên đều cần môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển ở mỗi nước. Việt Nam chân thành mong muốn Trung Quốc phát triển thành công, có vai trò tích cực trong việc bảo vệ hòa bình, ổn định và thúc đẩy sự thịnh vượng ở khu vực châu Á nói riêng và trên phạm vi toàn cầu nói chung./.
Kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Trường Sĩ quan Lục quân 1  (15/04/2015)
Đại biểu Quốc hội chuyên trách góp ý kiến vào một số dự luật  (15/04/2015)
Thông tin Hội thảo khoa học - thực tiễn  (15/04/2015)
Bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền  (15/04/2015)
Bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền  (15/04/2015)
"Cải" ít nói thì "Cách" mỏi tay!  (15/04/2015)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên