Xây dựng và phát huy vai trò hậu phương miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Đại tá, TS. Nguyễn Văn Quang Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (Bộ Quốc phòng)
22:57, ngày 26-06-2014

TCCSĐT - Tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin về chiến tranh cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, kế thừa kinh nghiệm quý báu của dân tộc và thế giới, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng hậu phương miền Bắc - coi đó là một bộ phận chiến lược của đường lối chiến tranh nhân dân.

Hậu phương là nhân tố quan trọng đối với sự thành bại của chiến tranh, đó là vấn đề có tính quy luật mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ ra trong các tác phẩm về chiến tranh và quân đội. Bởi vì, hậu phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh cả về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ...; là nơi chi viện chủ yếu sức người, sức của cho tiền tuyến, là chỗ dựa tinh thần của tiền tuyến.

Nhận rõ tính chất, đặc điểm của cuộc chiến tranh, đồng thời thấy được bản chất, âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ để xác định đúng yêu cầu, chủ trương và nhiệm vụ xây dựng hậu phương miền Bắc

Đặc điểm đầu tiên, lớn nhất và bao trùm nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là từ sau năm 1954, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền, mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau. Quá trình Đảng ta đề ra và thực hiện đường lối chiến lược, phương pháp đấu tranh cách mạng cho cả nước nói chung, mỗi miền nói riêng, đều chịu sự tác động và chi phối sâu sắc của đặc điểm này.

Đặc điểm thứ hai là, trong suốt quá trình chiến tranh, chúng ta phải đương đầu với một kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh đứng hàng đầu các nước đế quốc, đang ráo riết thực hiện âm mưu bá chủ của thế giới. Đây cũng là một đặc điểm lớn của cuộc kháng chiến của quân và dân ta. Đặc điểm này chi phối nhiều tới công cuộc tiến hành chiến tranh, trong đó có vấn đề xây dựng, bảo vệ, phát huy sức mạnh hậu phương chiến tranh. Đất nước ta không rộng, kinh tế còn kém phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn do trải qua 80 năm chịu cảnh nô lệ và 10 năm chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong điều kiện đó, để đánh thắng được kẻ thù mạnh và tối tân hơn nhiều lần, ngoài đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, còn cần phải có đường lối và biện pháp xây dựng, bảo vệ hậu phương nhằm tạo nên sức mạnh cần thiết.

Đặc điểm thứ ba là, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa thuận lợi, vừa phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đang ở thời kỳ phát triển mạnh, phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao. Đó là điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tuy nhiên, bên cạnh điều kiện thuận lợi đó, quan hệ giữa các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa diễn biến phức tạp, có sự bất hòa, bất đồng quan điểm, đã ảnh hưởng tới cách mạng nước ta.

Những đặc điểm trên đã tác động tới cuộc kháng chiến của nhân dân ta, tới việc xây dựng và phát huy vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tình hình đó, đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn để bảo đảm đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè, trước hết là các nước anh em, nhằm mở rộng hậu phương ta, thu hẹp hậu phương địch...

Về âm mưu của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, chính sách và chiến lược nhất quán của chúng là coi việc làm suy yếu và ra sức cản phá đến mức tối đa sự phát triển lớn mạnh của miền Bắc nước ta là một mục tiêu chiến lược. Trước sau, đế quốc Mỹ lúc nào cũng coi miền Bắc là nguồn gốc của cuộc “chiến tranh nổi dậy” ở miền Nam và là “hiểm họa số 1” của chiến lược và chính sách đối với Việt Nam của Mỹ. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng cũng như sách báo công khai của Mỹ đã phát hiện từ rất sớm vai trò miền Bắc là mấu chốt nhất của cuộc “chiến tranh Việt Nam”. Theo Mỹ, thì việc chỉ đạo, chỉ huy, tiếp tế tăng viện mọi mặt cho chiến tranh giải phóng miền Nam đều được xuất phát từ miền Bắc.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta sớm xác định rất rõ kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta, của cách mạng nước ta và lường định con đường đấu tranh hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước sẽ diễn ra lâu dài, rất gian khổ và ác liệt. Trong cuộc đấu tranh đó, vai trò, vị trí của miền Bắc được hoạch định rõ ngay từ đầu.

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa III) nhận định: “Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố về mọi mặt”(1). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, năm 1960, tiếp tục đề ra chủ trương phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải gắn bó chặt chẽ với cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng cả nước, đối với cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà; cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng, nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam. Xác định như vậy tức là Đảng khẳng định phải động viên sức mạnh của toàn dân tộc, của hai miền Nam, Bắc, của mọi người Việt Nam yêu nước để tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng thời nhấn mạnh quyết tâm ghìm đế quốc Mỹ và đánh bại chính sách xâm lược của Mỹ ngay tại chiến trường chính miền Nam.

Như vậy, ngay từ đầu, vai trò, vị trí của miền Bắc đã được Đảng ta xác định rất rõ. Để làm tròn vai trò đó, miền Bắc phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa; chỉ có tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc mới trở thành hậu phương - căn cứ địa cách mạng của cả nước, mới đảm đương được vai trò “nền gốc” cho lực lượng đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam.

Để xây dựng miền Bắc vững mạnh về chính trị, trong khi lãnh đạo toàn dân và toàn quân ta tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân, phát hiện và đập tan mọi âm mưu của các thế lực phản động phá hoại hậu phương miền Bắc,... Đảng đồng thời tự chỉnh đốn, tự đổi mới nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của chính quyền bắt nguồn từ khối đại đoàn kết vững chắc của các lực lượng yêu nước tập hợp trong Mặt trận Dân tộc thống nhất.

Đi đôi với xây dựng miền Bắc vững mạnh về chính trị là phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh tế ngắn hạn và dài hạn nhằm từng bước biến đổi sâu rộng nền kinh tế miền Bắc, làm cho miền Bắc vững mạnh về kinh tế. 10 năm xây dựng trong điều kiện hòa bình và tiếp đó trong điều kiện có chiến tranh, nền kinh tế miền Bắc có bước phát triển vững chắc cả về cơ cấu, thành phần và năng suất. Nền kinh tế đó đi dần vào thế tương đối ổn định và tỏ rõ tác dụng to lớn trong khói lửa đạn bom với hai ngành sản xuất chính là công nghiệp và nông nghiệp; với hai hình thức sở hữu bao trùm: quốc doanh và tập thể. Cùng với những biến đổi sâu rộng trong đời sống kinh tế, đời sống văn hóa - xã hội miền Bắc cũng đạt những thành tựu đáng tự hào, đặc biệt là sự nghiệp phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... Mức sống của các tầng lớp nhân dân tuy chưa cao nhưng cơ bản được ổn định; xã hội miền Bắc thực sự là xã hội của những người lao động, trong đó, mọi người tin yêu nhau, tin yêu Đảng và Chính phủ, cùng đoàn kết chung sức, chung lòng xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam.

Trên nền móng của chế độ chính trị - xã hội mới, lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng toàn dân không ngừng được củng cố, tăng cường. Từ chỗ thành phần lực lượng chủ yếu là bộ binh, lực lượng vũ trang nhân dân nhanh chóng trưởng thành về mọi mặt: bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, du kích, hình thành nhiều quân binh chủng mới với trang bị tương đối hiện đại.

Đi đôi với xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng, Nhà nước đề ra và thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng cường sức mạnh chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức quốc phòng trong nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng trong mọi lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện... Kết hợp phân chia địa bàn kinh tế với xây dựng tiềm lực quốc phòng từng khu vực, tổ chức và bố trí lực lượng phù hợp với yêu cầu xây dựng kinh tế, bảo vệ miền Bắc và sẵn sàng cơ động vào chiến trường miền Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, hậu phương miền Bắc được xây dựng theo một đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đó là đường lối tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; gắn chặt nhiệm vụ xây dựng với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc hậu phương; gắn chặt nhiệm vụ chiến lược của hậu phương với nhiệm vụ chiến lược của tiền tuyến.

Phát huy vai trò của hậu phương miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975

Dựa trên nền tảng chế độ xã hội mới được xây dựng trong 10 năm hòa bình (1954 - 1964), được củng cố và bảo vệ vững chắc trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều biện pháp nhằm làm cho miền Bắc phát huy đầy đủ, liên tục vai trò, tác dụng có ý nghĩa quyết định đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Trên nền tảng của chế độ xã hội mới, giải quyết mối quan hệ giữa chiến đấu và sản xuất, giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài, Đảng, Nhà nước đã đề ra và thực hiện có hiệu quả chính sách động viên sức người, sức của cho chiến trường phù hợp với điều kiện thực tế của từng thời kỳ, từng địa phương.

Đồng thời với công tác động viên, Đảng, Nhà nước còn thường xuyên quan tâm và đề ra những biện pháp nhằm bồi dưỡng sức dân. Trong những năm chiến tranh, Đảng, Nhà nước chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương không ngừng củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, đặc biệt là củng cố các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Hệ thống hợp tác xã sản xuất nông nghiệp được củng cố đã cho phép hậu phương miền Bắc động viên cao độ sức người, sức của phục vụ kháng chiến, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của chiến trường.

Tại hậu phương miền Bắc, dựa vào tính ưu việt của chế độ xã hội mới, Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức các chính sách kinh tế, văn hóa - xã hội, chính sách phân phối thu nhập, chế độ tiền lương, chính sách thuế... theo định hướng bảo đảm duy trì và ổn định đời sống nhân dân trong chiến tranh. Ngoài ra, việc học hành, chữa bệnh cũng được Nhà nước bao cấp phần lớn. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, chi viện cho chiến trường ngày càng tăng, việc thực hiện chính sách phân phối thu nhập quốc dân, bảo đảm định lượng cho mọi người dân, ổn định được đời sống nhân dân là cố gắng to lớn của Đảng và Nhà nước ta.

Nhằm bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, chính quyền các cấp luôn luôn chú trọng công tác sơ tán, phòng tránh, vận động và tổ chức toàn dân làm nhiệm vụ phòng không nhân dân. Nhờ thế, dù chiến tranh kéo dài và ngày càng ác liệt nhưng miền Bắc đã hạn chế được tối đa những tổn thất về người và cơ sở vật chất trước sự đánh phá của không quân và hải quân Mỹ.

Nhìn chung, suốt những năm chiến tranh, đặc biệt là trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và lần thứ hai của không quân, hải quân Mỹ, Đảng và Nhà nước đã đề ra và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc miền Bắc, từ đó phát huy vai trò, tác dụng của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn một cách mạnh mẽ, liên tục.

Ngay sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 khóa III, miền Bắc bắt đầu tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền Nam, cho cách mạng Lào và sau đó là cách mạng Cam-pu-chia. Sự chi viện đó ngày càng tăng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của chiến trường. Nếu như năm 1959, miền Bắc mới chỉ chi viện cho miền Nam 542 người thì đến năm 1964, con số đó tăng lên 17.475 người. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972, 1975), nhân lực động viên từ miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng lên gấp từ 4 đến 5 lần so với trước đó. Không tính số quân bảo vệ miền Bắc, làm nhiệm vụ dự bị chiến lược và chiến đấu, công tác trên tuyến vận tải chiến lược 559, chỉ riêng số quân từ miền Bắc vào chiến trường ở miền Nam trong những năm kể trên như sau: năm 1968: 141.081 người; năm 1972: 152.974 người; năm 1975: 117.193 người.

Năm 1975, năm cuối của cuộc kháng chiến, tổng số nhân lực miền Bắc động viên theo nhu cầu quốc phòng chiếm tới 30% lực lượng lao động xã hội ở miền Bắc; 60 - 65% trong số đó vào lực lượng vũ trang. Giai đoạn 1973 - 1975, 50% số quân bộ đội tập trung ở miền Nam là lực lượng do miền Bắc tăng cường. Ngoài lực lượng trực tiếp chiến đấu, các lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông, mở đường và các lực lượng bảo đảm khác... bao gồm hàng triệu lượt người cũng đều được động viên ở miền Bắc.

Đại bộ phận lực lượng được động viên phục vụ nhu cầu chiến tranh thời kỳ này là thanh niên. Đó là những người trưởng thành trong chế độ xã hội mới, dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, có giác ngộ chính trị cao, có trình độ văn hóa, phẩm chất đạo đức, và sức khỏe tốt. Do vậy, đây là lớp người có trình độ, nắm vững và sử dụng thành thạo hiệu quả các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, là lớp người chiến đấu với niềm tin và ý thức giác ngộ chính trị cao. Lớp lớp thanh niên tình nguyện đi vào chiến tranh ác liệt với tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - mà lòng phơi phới dậy tương lai”!

Không những huy động lực lượng con người cho chiến trường mà phần lớn vũ khí, thiết bị chiến tranh, lương thực, thuốc men... phục vụ công tác chiến đấu và ổn định vùng giải phóng ở miền Nam và chiến trường Đông Dương đều do miền Bắc trực tiếp chi viện. Miền Bắc đã tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất, phương tiện kỹ thuật do các nước anh em viện trợ, tổ chức nghiên cứu, thiết kế, cải biên, cải tiến nhiều loại vũ khí, khí tài chiến đấu, vận chuyển vượt hàng nghìn ki-lô-mét dưới bom đạn đánh phá của địch, đưa các loại vật chất, hàng hóa quân sự vào các mặt trận, các vùng giải phóng. Trong những năm 1965 đến năm 1968, miền Bắc đã tổ chức vận chuyển vào miền Nam một khối lượng vật chất lớn gấp 10 lần so với những năm 1961 - 1964. Tổng khối lượng vật chất miền Bắc chi viện cho miền Nam trong những năm chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” còn tăng gấp nhiều lần so với thời kỳ chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.

Như vậy, nhân lực và vật chất - hai nhân tố chiến lược quan trọng trong chiến tranh đã được hậu phương miền Bắc đáp ứng kịp thời, đầy đủ, liên tục và ngày càng cao. Quân và dân hậu phương miền Bắc đã góp phần rất quan trọng cùng tiền tuyến lớn miền Nam đánh bại các bước leo thang chiến tranh của không quân, hải quân Mỹ, làm thất bại các mục tiêu chiến lược chủ yếu của cuộc chiến tranh này, đập tan mưu đồ xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Thành quả của công cuộc xây dựng miền Bắc, sự ổn định của miền Bắc trong những năm chống chiến tranh phá hoại, sự phục hồi nhanh của lực lượng cách mạng miền Nam sau năm 1972 là một trong những cơ sở để Đảng ta đề ra chủ trương chiến lược giải phóng miền Nam, hoàn thành độc lập dân chủ trong hai năm 1975 - 1976.

Nhằm động viên cao độ sức mạnh toàn diện của miền Bắc cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, trong hai năm 1973 - 1974, hơn 25 vạn thanh niên miền Bắc được động viên vào lực lượng vũ trang, 15 vạn quân từ biệt hậu phương vào chiến trường chiến đấu, hàng vạn cán bộ, nhân viên kỹ thuật, thanh niên xung phong miền Bắc tới các vùng giải phóng, góp phần ổn định tình hình. Lực lượng công binh, Bộ đội Đoàn 559, ngành vận tải miền Bắc cùng hàng vạn dân công miền Bắc dồn sức mở rộng đường Trường Sơn, đặt thêm đường ống dẫn dầu. Trong hai năm này, 379.000 tấn vật chất từ miền Bắc được chuyển vào các mặt trận, bằng 54% tổng khối lượng vật chất giao cho chiến trường trong suốt 16 năm trước đó. Được sự chi viện mạnh mẽ của miền Bắc, thế và lực của cách mạng miền Nam trở nên mạnh mẽ hơn.

Trên miền Bắc, các lực lượng dự bị chiến lược được tăng cường, các quân đoàn chủ lực gồm nhiều binh chủng hợp thành lần lượt ra đời. Các quân binh chủng cũng xây dựng tăng cường thêm nhiều đơn vị mới. Toàn bộ tình hình trên đây là cơ sở để Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đi đến quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975.

Thực hiện quyết tâm đó, 4 tháng đầu năm 1975, miền Bắc đưa nhanh vào miền Nam hơn 110.000 cán bộ, chiến sĩ, 230.000 tấn vật chất hàng hóa các loại. Như vậy, vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, miền Bắc đã dốc toàn bộ sức mạnh của mình cho miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giành thắng lợi hoàn toàn.

Sau ngày miền Nam giải phóng, với những kinh nghiệm tiếp quản thành thị và vùng bị địch chiếm đóng những năm 1954 - 1955, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân viên kỹ thuật từ miền Bắc đưa vào đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp quản các đô thị và vùng mới giải phóng; góp phần thắng lợi nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội miền Nam./.

----------------------------------

(1) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t. 16, tr. 577