Khả năng hình thành trật tự kinh tế quốc tế mới

Trần Thị Lan Hương
11:43, ngày 20-05-2010

TCCS - Những biến động của thế giới từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 khiến giới phân tích liên tưởng đến một cục diện mới cho nền kinh tế thế giới. Bởi vai trò “giải cứu” thế giới thoát khỏi cuộc khủng hoảng của Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và các thể chế quốc tế đa phương lần này dường như mờ nhạt, thay vào đó là sự bật lên của các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, ấn Độ, Nga… Có thể thấy, thế giới đang có sự đổi thay, đánh dấu sự kết thúc cục diện kinh tế quốc tế thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, mở ra một thế giới mới theo hướng đa cực hóa.

Kết thúc thời kỳ kinh tế quốc tế đơn cực?

Sau sự sụp đổ của Liên Xô và Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự kinh tế quốc tế bước vào thời kỳ phát triển theo hướng có lợi cho Mỹ và các nước phương Tây. Trên thực tế, kể từ năm 1991 (khi Liên Xô sụp đổ) cho đến

năm 2000 (trước khi xảy ra vụ khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ), kinh tế thế giới nằm trong thời kỳ đơn cực, trong đó Mỹ là siêu cường duy nhất có khả năng thâu tóm, điều khiển nền kinh tế thế giới, chi phối các định chế kinh tế toàn cầu như Liên hợp quốc, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB). Trong giai đoạn 1991 - 2000, nền kinh tế Mỹ bước vào thời kỳ lớn mạnh chưa từng có, với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình là 3,4%/năm, nhanh hơn bất kỳ một nước công nghiệp phát triển nào kể cả Đức, Pháp, Anh và Nhật Bản. Cũng trong thời kỳ này, Mỹ tham gia thành lập Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), mở đầu cho việc hình thành nhiều khối thương mại tự do trên thế giới, khởi nguồn cho làn sóng khu vực hóa, toàn cầu hóa diễn ra nhanh, mạnh trong thập niên 90 của thế kỷ XX. Quyền lực kinh tế của Mỹ còn được thể hiện thông qua việc khởi xướng tiếp nối Hiệp ước chung thuế quan và mậu dịch (GATT) thành Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 1995.

Cùng với sự lớn mạnh không ngừng của Mỹ, các khu vực kinh tế ngoại vi (các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi) tuy được hưởng lợi rất nhiều từ làn sóng tự do hóa và toàn cầu hóa, song không thể tránh khỏi sự phát triển bất ổn định và khủng hoảng (điển hình là các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nhiều nước Đông Âu đầu thập niên 90, khủng hoảng đồng pê-xô ở Mê-xi-cô năm 1994, khủng hoảng nợ ở Nga năm 1998, khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998, khủng hoảng nợ ở ác-hen-ti-na năm 2001). Sự lan rộng của các cuộc khủng hoảng kinh tế ở khu vực ngoại vi đã kéo theo sự gia tăng quyền lực của các định chế toàn cầu như IMF và WB (đứng sau là Mỹ), khiến các nước ngày càng bị lôi kéo và phụ thuộc vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế.

Kể từ sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001, vai trò đơn cực của Mỹ bị suy yếu dần. Những năm 2001 - 2002 đánh dấu thời kỳ đen tối đầu tiên của nền kinh tế nước này khi tốc độ tăng trưởng GDP năm 2001 chỉ đạt 1,1%, năm 2002 là 1,8%. Sự suy thoái đã khiến niềm tin của nền kinh tế thế giới vào Mỹ giảm mạnh. Để củng cố sức mạnh của mình, Mỹ đã tăng cường ảnh hưởng chính trị và quân sự tại các chiến trường I-rắc, Áp-ga-ni-xtan nhằm tái thiết lập trật tự quốc tế đã từng đặt ra. Tuy nhiên, vào năm 2008, khi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới được châm ngòi từ Mỹ, thì trật tự thế giới đơn cực này dường như đi đến hồi kết. Thời kỳ đen tối lần thứ hai của nền kinh tế Mỹ tiếp tục được lặp lại chỉ sau 5 năm tăng trưởng ổn định ở mức 2,8%/năm (2003 - 2007). Trong hai năm 2008 - 2009, kinh tế Mỹ tăng trưởng ở mức 0,4% và -2,7% tương ứng. Tính từ khi nổ ra khủng hoảng ở Mỹ vào tháng 9-2008 cho đến cuối năm 2009, có tới 140 ngân hàng ở Mỹ tuyên bố phá sản - mức cao nhất kể từ năm 1990. Thất nghiệp ở Mỹ vào tháng 10-2009 lên tới 10,2%, cao nhất trong vòng 26 năm qua. Cùng với Mỹ, kinh tế EU cũng lâm vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng với tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực đồng ơ-rô chỉ đạt 0,7% vào năm 2008 và -4,2% vào năm 2009. Thất nghiệp của khu vực đồng ơ-rô chiếm gần 10% lực lượng lao động. Để đối phó với khủng hoảng lần này, Mỹ và các nền kinh tế lớn trên thế giới đã tiêu tốn hàng trăm tỉ USD, đồng thời tiến hành những giải pháp cải cách mạnh tay mang tính điều chỉnh vĩ mô và tái cơ cấu. Cơn “sóng thần” khủng hoảng năm 2008 - 2009 với những tổn thất và chi phí “cứu chữa” nặng nề đã đánh mạnh vào nền kinh tế Mỹ và các nước công nghiệp phát triển, khiến các định chế đa phương buộc phải bó tay không có giải pháp cứu chữa.

Như vậy, năm 2008 - 2009 được coi là đỉnh điểm của suy thoái kinh tế Mỹ và EU, đánh dấu chấm hết cho tham vọng bá quyền thế giới của Mỹ. Đây cũng là thời khắc ghi nhận sự rạn nứt của mô hình kinh tế tự do mới theo kiểu Anglo - Saxon mà Mỹ đã quyết tâm truyền bá ra toàn thế giới trong thời gian qua. Với sự lớn mạnh của các cường quốc khác và những thành công của mô hình kinh tế tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước, trước hết là ở Trung Quốc, trật tự kinh tế quốc tế bắt đầu có sự thay đổi theo xu thế đa cực hóa.

Trật tự kinh tế quốc tế mới

Song song với sự suy yếu của nền kinh tế Mỹ là sự lớn mạnh không ngừng của các nền kinh tế mới nổi khiến trật tự kinh tế quốc tế ngày càng tăng tốc độ dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông, nghĩa là từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển và mới nổi. Trong 10 năm trở lại đây, các nền kinh tế mới nổi ngày càng trở nên có sức cạnh tranh hơn so với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. Trong bảng xếp hạng năm 2006 của Viện Nghiên cứu kinh tế IMD Thụy Sĩ, các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là các nền kinh tế châu á, đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về sức cạnh tranh so với Mỹ và dần vượt qua các nước công nghiệp có trình độ phát triển cao ở châu Âu. Tuy nhiên, trong làn sóng dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông, có thể nhận thấy sức mạnh đang lên của một số định chế mới như G2 (Mỹ - Trung Quốc), G3 (Mỹ - Trung Quốc - EU), G6 (Mỹ - EU - Nhật Bản - Nga - Trung Quốc - ấn Độ), G9 (G8 + Trung Quốc), BRIC (Bra-xin - Nga - Trung Quốc - ấn Độ), G5 (Trung Quốc - ấn Độ - Bra-xin - Mê-hi-cô - Nam Phi), G13 (G8 + G5), G14 (G13+ Ai Cập) và G20. Trong các định chế mới này, vẫn có bóng dáng của nhiều nước lớn phương Tây như Mỹ, EU, nhưng cũng in đậm nét vai trò ngày càng lên của các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Bra-xin, Nam Phi, Mê-hi-cô, khiến thế giới đơn cực bị phá vỡ và dần đang hình thành một thế giới đa cực nhiều màu sắc.

Trong thế giới đa cực, có thể nhấn mạnh đến vai trò của một số nước đang phát triển có dân số lớn, diện tích rộng, tiềm lực quân sự mạnh như Trung Quốc, ấn Độ, Bra-xin, Nga. Bốn nước lớn này thuộc nhóm BRIC, chiếm tới 26% diện tích, 43,4% dân số, 22,4% GDP toàn cầu vào năm 2008, 33% dự trữ ngoại tệ và 13,7% khối lượng giao dịch thương mại thế giới. Tổng giá trị trao đổi thương mại toàn cầu của nhóm BRIC năm 2008 là 60.700 tỉ USD. Trong giai đoạn 1999 - 2008, Bra-xin có tỷ lệ tăng trưởng GDP là 3,8%, Nga và ấn Độ là 7% và Trung Quốc là 9,75%. Năm 2009, Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng GDP là 8,5%, ấn Độ là 5,4%, chỉ có Nga và Bra-xin phải chịu tốc độ tăng trưởng âm do ảnh hưởng từ khủng hoảng nhưng dự kiến sẽ phục hồi nhanh vào năm 2010. Xét về tầm quan trọng của thị trường nội địa, chiếm 43,4% dân số toàn cầu cũng như sự năng động trong việc lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế, bốn nền kinh tế trên đóng vai trò quan trọng trong việc đưa kinh tế thế giới thoát khỏi khủng hoảng.

Ngoài nhóm BRIC, G20 đang nổi lên với tư cách là một tổ chức kinh tế liên chính phủ trong điều hành kinh tế toàn cầu. G20 bao gồm sự tham gia của những nền kinh tế phát triển G7 cùng những nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, In-đô-nê-xi-a, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả rập Xê-út (châu Á), Bra-xin, Ác-hen-ti-na, Mê-hi-cô (Mỹ La-tinh), Nga (châu Âu), Nam Phi (châu Phi)... Các nền kinh tế mới nổi đã có những đóng góp và gia tăng ảnh hưởng đối với nền kinh tế thế giới trong nhiều lĩnh vực như: tăng trưởng kinh tế, giá cả hàng hóa, dự trữ ngoại tệ thế giới, phân chia thu nhập và lợi nhuận kinh doanh... Nếu như năm 1970, xuất khẩu của những nước này chỉ chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới, thì năm 2008, con số này đã tăng lên 34,9%.

Không những thế, sự phát triển nhanh, mạnh vào những năm gần đây đã khiến các nền kinh tế này không còn là “sân sau” của các nước phát triển. Một số nước đã và đang góp phần tạo ra những “cú hích” lớn cho nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng, đặc biệt là các nước Đông Á, Nga và Mỹ La-tinh. Các nước này đã từng trải qua những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, do vậy có nhiều kinh nghiệm để khắc phục. Nếu như trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998, IMF có vai trò “giải cứu” đối với nhiều nền kinh tế mới nổi châu Á bị khủng hoảng, thì trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới lần này, hàng loạt các thể chế toàn cầu như IMF, WB và các nước giàu như Mỹ, Nhật Bản và EU đều tỏ ra bất lực và không đủ khả năng giúp thế giới phục hồi sau khủng hoảng. Vai trò “giải cứu” nền kinh tế thế giới trong năm 2008 - 2009 đã được chuyển về nhóm các nước đang phát triển và mới nổi. Trong số 10 nước có nguồn dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới năm 2009, có tới 8 nền kinh tế phương Đông, trong đó có nhóm BRIC và một số nền kinh tế khác như Hàn Quốc, Hồng Kông, Xin-ga-po, Đài Loan. Dự trữ ngoại tệ của nhóm BRIC tính đến giữa năm 2009 đạt 3.051 tỉ USD, vượt xa mức dự trữ ngoại tệ của nhóm G7, trong đó Trung Quốc là nước có dự trữ ngoại tệ lớn nhất là 2.132 tỉ USD, chiếm tới 70% dự trữ ngoại tệ của BRIC, sau đó là Nga. Dự trữ ngoại tệ lớn của nhiều nền kinh tế mới nổi thực sự đã giúp thế giới tránh được một cuộc đại khủng hoảng kinh tế kéo dài nhờ việc sử dụng ngoại tệ trong nước để kích cầu kinh tế và duy trì sự ổn định của đồng nội tệ.

Sự lớn mạnh không ngừng cũng đã khiến các nước này trở thành “đầu tàu” cho nền kinh tế thế giới trong năm 2008 và 2009. Khác với các nước công nghiệp phát triển, các nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương mặc dù bị suy thoái, song vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá. Tính chung cho các nước đang phát triển châu Á, tốc độ tăng GDP năm 2008 là 7,6% và năm 2009 là 6,2%. Nhờ có nguồn dự trữ ngoại tệ lớn và vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển thực sự đã phá vỡ vai trò độc quyền của nhóm G7 vốn tự cho mình cái quyền “chữa cháy” cho thế giới trong tình trạng khẩn cấp. Hội nghị G20 được tổ chức ở Oa-sinh-tơn (Mỹ) hồi tháng 9-2009 đã chính thức công nhận, vai trò của các nền kinh tế mới nổi châu Á và Mỹ La-tinh trong việc giải quyết các vấn đề chung toàn cầu. Hội nghị đã nhất trí chuyển 5% quyền bỏ phiếu trong IMF từ các nước phát triển sang các nền kinh tế mới nổi, đồng thời, đề nghị cải cách WB vào năm 2010 và IMF vào năm 2011 nhằm nâng cao tính hiệu lực của hai tổ chức này, tránh để xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính tương tự.

Trung Quốc - nhân tố dịch chuyển

Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã rõ nét từ nhiều năm nay. Trong phạm vi khu vực châu á, Trung Quốc đã thay thế vị trí của Nhật Bản trong một số lĩnh vực quan trọng, đặc biệt là vào năm 2004, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản về kim ngạch xuất khẩu; năm 2006, vượt về dự trữ ngoại tệ; từ năm 2008, Trung Quốc bắt đầu trở thành thị trường lớn nhất của ASEAN, thay thế Nhật Bản sau nhiều thập niên là đối tác truyền thống của khối. Năm 2009, Trung Quốc vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, vượt qua Nhật Bản và Đức, trở thành một thế lực thực sự trên bàn cờ chính trị và kinh tế quốc tế. Trong phạm vi toàn cầu, sự nổi lên của Trung Quốc với mô hình phát triển đề cao sự can thiệp của nhà nước làm rạn nứt thêm mô hình chủ nghĩa tự do mới mà Mỹ theo đuổi. Trong khi “đầu tàu” kinh tế thế giới là Mỹ đang phải nỗ lực tìm kiếm giải pháp thoát khỏi khủng hoảng tài chính toàn cầu, thì Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Có thể nói, những thập niên đầu của thế kỷ XXI đánh dấu bước ngoặt mang tính thời đại của Trung Quốc trên con đường đi tới một siêu cường kinh tế. Cho đến nay, Trung Quốc đã đứng đầu thế giới trong sản xuất nguyên vật liệu cơ bản như sắt, thép, đồng, nhôm, xi-măng; là cường quốc thứ nhất thế giới trong xuất khẩu tàu biển và hàng điện tử tiêu dùng; đứng thứ hai sau Mỹ trong xuất khẩu ô-tô. Dự tính năm 2011, 25% hàng hóa nhập khẩu của Mỹ sẽ là hàng Trung Quốc; năm 2039, GDP của Trung Quốc sẽ vượt Mỹ, trở thành cường quốc kinh tế lớn nhất trên thế giới.

Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với thế giới còn thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Vào năm 2007, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc là 70 tỉ USD theo đánh giá của Chính phủ Trung Quốc và khoảng 138 tỉ - 156 tỉ USD theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Mỹ. Trung Quốc là nước đứng thứ hai sau Mỹ trong chi tiêu quốc phòng, vượt qua Nhật Bản và Nga. Hiện nay, Trung Quốc đang là cường quốc về vũ trụ và nắm giữ hầu hết các hệ thống vũ khí hiện đại nhất trên thế giới. ảnh hưởng của Trung Quốc lan rộng từ châu á trong vấn đề biển Đông, Bắc Triều Tiên, Đài Loan, quan hệ ấn Độ - Pa-ki-xtan, đến các vấn đề của toàn thế giới như biển Thái Bình Dương, các diễn đàn quốc tế... Với những hoạt động viện trợ và trên nguyên tắc “không can thiệp vào nội bộ của các nước nhận viện trợ”, Trung Quốc đang trở thành đối tác kinh tế quan trọng của các nước châu Phi và Mỹ La-tinh, thay thế dần vị thế của Mỹ và châu Âu ở các khu vực này. Với chiến thuật thuê đất làm nông nghiệp, xuất khẩu nông dân, đầu tư ra nước ngoài để xây dựng làng nông nghiệp, khai thác tài nguyên khoáng sản, Trung Quốc đang có mặt ở nhiều vùng đất châu Phi và Mỹ La-tinh và được sự ủng hộ của các nước này, bởi Trung Quốc không hề can thiệp vào thể chế chính trị cũng như quá trình dân chủ hóa như Mỹ thường áp dụng ở các nước nghèo. Hơn nữa, mô hình phát triển “mang màu sắc Trung Quốc” đã khiến Trung Quốc đang ngày càng có tiếng nói quan trọng đối với nhiều nước Mỹ La-tinh - vốn bị Mỹ coi là “sân sau” của mình và là nơi có phong trào cánh tả ngày càng lan rộng với mục tiêu xây dựng “chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI”. Những gì Trung Quốc đang làm khiến cho thế giới liên tưởng đến sự ra đời của “đồng thuận Bắc Kinh” để thay thế cho “đồng thuận Oa-sinh-tơn” hà khắc hiện nay. “Đồng thuận Bắc Kinh” chắc chắn đi theo con đường nhà nước điều tiết nền kinh tế, ngược với “đồng thuận Oa-sinh-tơn” để cho thị trường tự điều tiết mà WB, IMF và Bộ Tài chính Mỹ đề ra vào năm 1990.

Như vậy có thể thấy “hiện tượng Trung Quốc” đang trở thành xu thế vận động và thế giới năm 2009 đã nhắc đến cụm từ G2 (Mỹ - Trung) cũng như nhóm tứ trụ BRIC. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 -2009 đã thực sự “chia đôi” thế giới, trong đó Mỹ đứng đầu các nước tư bản phát triển đang lâm vào tình trạng suy yếu cả về thực lực kinh tế và mô hình phát triển, và Trung Quốc đứng đầu các nước đang phát triển và mới nổi lên đang ở thế thượng phong cả về hai khía cạnh trên. Hiện đồng nhân dân tệ chưa trở thành đồng tiền có thể cạnh tranh với đồng USD và thế giới vẫn phải tiếp tục phụ thuộc vào Mỹ bởi phần lớn dự trữ ngoại tệ của các nước gắn chặt vào đồng USD, nhưng những thay đổi gần đây của nền kinh tế thế giới liệu có thể dẫn đến một thực tế là: trong nửa đầu của thế kỷ XXI, trật tự kinh tế quốc tế sẽ có sự thay đổi mạnh mẽ, trong đó, Mỹ và Trung Quốc sẽ chia sẻ quyền kiểm soát nền kinh tế toàn cầu?