Vấn đề điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu
TCCS - Tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng là mục tiêu ưu tiên, được quan tâm nhiều trên các diễn đàn, thế nhưng nhận diện rõ tính chu kỳ của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế thị trường, đồng thời cũng cần thấy những hạn chế và bất cập trong quản lý điều hành nền kinh tế... là mấu chốt của vấn đề mang tính dài hạn, liên quan đến cả quá trình xây dựng thể chế kinh tế ở nước ta.
1 - Lý giải thêm về cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu đầu thế kỷ XXI
Có thể nói khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu có quy mô rộng lớn chưa từng có trong lịch sử vừa qua cũng là một dạng của khủng hoảng chu kỳ trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, mỗi lần nó đến, nhiều nền kinh tế đều tỏ ra bị động, bất ngờ. Điều đó cũng dễ hiểu vì chưa có "cuộc nào giống cuộc nào", cho dù vẫn biết rằng khủng hoảng kinh tế có chu kỳ.
Lần đầu tiên trong giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sử sách đã ghi nhận được cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực công nghiệp xảy ra đầu tiên vào năm 1825. Trong giai đoạn thị trường tự do hay tự do cạnh tranh, chu kỳ khủng hoảng diễn ra khoảng 8 - 12 năm một lần. Nhưng trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhất là có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước, thì khủng hoảng diễn ra theo chu kỳ 5 - 6 năm một lần. Cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất đã đi vào lịch sử của thế giới tư bản vào năm 1929 - 1933 gây ra cuộc đại suy thoái. Cuộc khủng hoảng có sức công phá mạnh vào cuối thế kỷ XX là khủng hoảng năng lượng xảy ra vào năm 1974 - 1975.
Bước sang thế kỷ XXI, cuộc khủng hoảng tài chính, bắt nguồn từ tín dụng dưới chuẩn về nhà ở và bất động sản ở Mỹ, nhưng theo nhiều đánh giá, đây chỉ là "giọt nước làm tràn ly". Qua cuộc khủng hoảng và suy thoái toàn cầu vừa rồi lại càng thấy rõ thêm bản chất của nó đều là khủng hoảng chu kỳ, cung vượt quá cầu dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu. Bằng chứng là ô-tô không tiêu thụ được làm cho nhiều hãng sản xuất ô-tô bị phá sản, đứng bên bờ vực phá sản hoặc điêu đứng. Nông dân Pháp phải đổ sữa ra đường, xuống sông hồ vì giá sữa quá rẻ, thu không đủ bù chi...
Qua mỗi lần khủng hoảng các nước tư bản đều tự điều chỉnh mình, nhất là tìm cách tránh hoặc hạn chế sức công phá của nó, thế nhưng ngay cả ông A. Grin-xpan (Alan Greenspan), cựu Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã khẳng định, "khủng hoảng là tất yếu phải xảy ra, cho dù có ai đó tìm ra con đường có thể xoay chuyển lẽ tự nhiên đó, chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều cuộc khủng hoảng khác và chẳng có cuộc nào giống cuộc nào cả".
Nhìn sang các nước thuộc khối Bắc Âu thì thấy, tác động tiêu cực của khủng hoảng không đến nỗi ghê gớm lắm. Có những doanh nghiệp xuất khẩu linh kiện sang Mỹ chiếm tới 70% sản lượng, do khủng hoảng mà bị cắt lượng lớn “đầu ra”, nhưng công nhân vẫn đi làm cầm chừng, nhận lương do chi phí cho một chỗ thất nghiệp còn lớn hơn là để công nhân đi làm cầm chừng như vậy. Điều đó cho thấy, an sinh xã hội và mức độ phân phối công bằng hơn sẽ ít bị tác động tiêu cực hơn khi khủng hoảng xảy ra.
Về mặt lý thuyết, có thể cắt nghĩa, sức tiêu dùng cuối cùng mạnh hay yếu phụ thuộc vào thu nhập của quảng đại quần chúng nhân dân. Sản xuất thừa là vì xảy ra tình trạng mất cân đối lớn giữa nhu cầu có khả năng thanh toán của dân chúng với công suất hiện có tại một thời điểm nào đó của quá trình tái sản xuất xã hội {(Ci+Vi+ Mi)>( Vi+DMi)}.
Chính vì thế, học thuyết Kên (Keynes) đã đưa ra một khung chính sách vĩ mô bảo đảm chính phủ phải duy trì thường xuyên một lượng tổng cầu ở mức cao, đủ để mọi người dân đều có việc làm. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng chính sách tài chính và tiền tệ để bù đắp thâm hụt ngân sách đồng thời làm cho tổng cầu khu vực tư nhân được duy trì ổn định. Trong cuốn: "Lý thuyết chung về việc làm, lãi xuất và tiền tệ", xuất bản lần đầu năm 1936, Kên đã giải thích về tình trạng suy thoái của nền kinh tế và đưa ra các biện pháp để vượt qua cũng như ngăn chặn đà suy thoái đó. Nói một cách vắn tắt, phương án của Kên là sử dụng ngân sách của chính phủ để bù lỗ cho các khoản chi tiêu khu vực tư nhân, ổn định tổng cầu nền kinh tế, giúp cho tất cả mọi người đều có việc làm, có thu nhập (Vi) và có nhu cầu tiêu dùng. Thế nhưng, bất đẳng thức trên có thể đạt được sự cân bằng tạm thời, vì còn có nhiều khoản chi tiêu sản xuất, tiền lương của những hạng mục đầu tư chưa đến kỳ đưa ra thị trường sản phẩm (đầu tư trung và dài hạn)(1).
Cuộc khủng hoảng lần này khởi nguồn từ chính tín dụng dưới chuẩn trong lĩnh vực bất động sản của hàng loạt các ngân hàng lớn nhỏ, trong đó có những ngân hàng tuổi đời đã gần 2 thế kỷ. Câu chuyện lại cũng không mấy khác trước, ở chỗ, tất cả các cuộc khủng hoảng đều do bong bóng tư bản giả phình to quá mức, đến khi "cơn lốc" ập đến thì toàn bộ nền kinh tế đều rơi vào trạng thái thiếu tiền, buộc chính phủ phải bơm hết lần tiền này đến lần tiền khác cho tới khi nền kinh tế thoát ra khỏi vòng xoáy đó.
Thực ra quá trình làm cho tư bản giả phình to gấp hàng chục lần tư bản thật là một hoạt động không mới(2), thậm chí nó còn có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Câu nói nổi tiếng của C.Mác khi bàn về xã hội tín dụng dưới chủ nghĩa tư bản là ví việc phát hành cổ phiếu, tín phiếu và trái phiếu để kích thích tăng giá trị của tư bản giả như một quá trình trong xã hội tư bản vừa kích thích phát triển mạnh vừa là một thứ lừa dối lẫn nhau, mà ông đã coi nó như "vừa là kẻ lừa đảo, vừa là nhà tiên tri".
Giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhiều cuộc khủng hoảng chu kỳ đã được can thiệp làm cho hậu quả và sức tàn phá không lớn như đại suy thoái 1929 - 1933. Nhiều người đã tưởng rằng, học thuyết kinh tế tiêu biểu của chủ nghĩa tư bản mà ông tổ của nó là A.Xmit (A. Xmith) đã lùi vào quá khứ với "bàn tay vô hình" để nhường chỗ cho "bàn tay hữu hình" (đại biểu là Kên) từ nửa đầu thể kỷ XX. Thế nhưng, những lạm dụng quá mức của các chính phủ trong việc can thiệp vào kinh tế đã để lại những hậu quả cũng không mấy sáng sủa. Chủ nghĩa tư bản của gần 4 thập niên gần đây đã tách biệt khá xa với thời kỳ điều tiết trước đó do sự lên ngôi của chủ nghĩa tự do mới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính 2008 - 2009 đã được nói đến như một cuộc đại suy thoái "trăm năm mới có một lần", so sánh với đại suy thoái 1929 - 1933, nhưng đến đầu năm 2010 sự hồi phục của các nền kinh tế cũng thực sự kỳ diệu. Có thể nói, đó chính là sự ra tay mạnh mẽ của các chính phủ, của những cuộc bàn thảo, phối hợp giữa các thể chế tài chính quốc tế, các gói hỗ trợ và kích thích kinh tế khổng lồ của các quốc gia lớn - bé.
Nhiều câu hỏi lớn, trong đó không ít những hoài nghi đối với vai trò của các học thuyết kinh tế đã được đưa ra. Những nền kinh tế mới chuyển đổi, như Việt Nam, đang tìm cách điều chỉnh lại mô hình để làm sao có thể đề kháng một cách tốt nhất đối với nguy cơ khủng hoảng tái hiện trong tương lai. Nhưng điều khó có thể bác bỏ được đó là tính chu kỳ của kinh tế đã hiện hữu ngay trong nền kinh tế Việt Nam, nếu tính từ năm 1986 đến nay, chu kỳ 10 năm thì có một đợt suy giảm tăng trưởng. Đó cũng chính là đặc trưng của kinh tế thị trường. Các lý thuyết kinh tế, tuy lúc thì thiên về điều tiết của chính phủ, lúc thì thiên về thị trường tự do, nhưng đều tìm cách lý giải và ứng phó với những quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường.
Di sản của C.Mác không những đã "giải thích thế giới", mà còn tìm cách để “cải tạo thế giới", không những đã chỉ ra bản chất của kinh tế thị trường với những căn bệnh trầm kha của nó trong chủ nghĩa tư bản, mà còn để lại một bản phác thảo ban đầu về một xã hội tương lai có đủ khả năng khắc phục triệt để những khuyết tật đó. Tiếc rằng, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã không thực hiện được những dự báo đó của C.Mác, đã không tạo ra sản xuất thừa, nhưng lại triệt tiêu động lực sáng tạo của sở hữu tư nhân, những chủ thể kiến tạo thị trường.
Phải chăng, kinh tế hỗn hợp, mà thực chất là kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ, tạo điều kiện để phát huy tối đa những mặt mạnh vừa của thị trường, vừa của chính phủ, đồng thời cũng kiềm chế những mặt yếu, khiếm khuyết của cả hai, bằng quy luật khách quan của thị trường với những cảnh báo, can thiệp đúng lúc, đúng mức và hiệu quả của chính phủ, đồng thời bảo đảm được sự phát triển bền vững trên cơ sở hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với môi trường và an sinh xã hội tốt... đang là lối thoát cho các mô hình kinh tế hiện nay.
2 - Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế Việt Nam thời hậu khủng hoảng
Trở lại Việt Nam, nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường chưa được bao lâu, nhưng tình trạng sản xuất thừa đã xuất hiện trong nhiều ngành hàng, chu kỳ tăng trưởng giảm đang được lặp đi lặp lại với khoảng thời gian 10 năm đã lộ rõ. Nền kinh tế ngày càng lệ thuộc vào thị trường thế giới, khi kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng mạnh cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ trọng so với GDP. Bởi vậy, khi nhu cầu tiêu thụ trên các thị trường nước ngoài bị cắt giảm thì nền kinh tế rơi vào trạng thái khủng hoảng dây chuyền, sản xuất thừa, nhân công bị cắt giảm, thất nghiệp...
Ở một khía cạnh hẹp hơn, có thể xem xét mối quan hệ tương tác giữa thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Có một van an toàn để bù đắp khoản thiếu hụt nhu cầu trên thị trường xuất khẩu là kích thích tiêu dùng trong nước. Vậy có phải tái cấu trúc nền kinh tế chính là nhằm tìm cách tạo được những khả năng để nền kinh tế có thể tránh được tối đa tác động tiêu cực của khủng hoảng?. Chúng ta hẳn còn nhớ, khoảng từ năm 1998 những ý tưởng về tái cấu trúc cũng đã xuất hiện ở phương diện hướng vào thị trường trong nước như cái "van an toàn" cho xuất khẩu khi thị trường thế giới khủng hoảng.
Muốn phát triển thị trường trong nước thì phải chăm lo đến đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân, nhất là 2/3 dân số khu vực nông thôn. Thế nhưng khi kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài chính 1997, thì chúng ta lại lao vào sản xuất, gia công để xuất khẩu, nay kim ngạch xuất khẩu đã lên tới tỷ trọng khá cao trong GDP. Đến năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của chúng ta đã lên đến con số trên 70% GDP, nhưng khi thị trường thế giới bị suy thoái, hàng loạt hợp đồng bị cắt giảm, khó khăn trong việc ký các hợp đồng xuất khẩu mới, thì câu chuyện tìm lại thị trường trong nước bắt đầu sôi động trở lại. Thị trường trong nước là gì, ai tham gia, hiện trạng nó đang như thế nào,... lại được tiếp tục bàn cãi.
Từ giữa năm 2009, chúng ta lại bàn tới tái cấu trúc nền kinh tế để đề kháng với khủng hoảng, để biến thách thức thành thời cơ... Nhưng mức độ hội nhập về lĩnh vực xuất - nhập khẩu đã khá sâu, đã tạo ra mối quan hệ lệ thuộc quá lớn vào thị trường thế giới, mà chưa có một biện pháp phòng ngừa rủi ro nào cho thật căn cơ và bài bản. Đây cũng là vấn đề cần được bàn tính kỹ.
Dưới sự tác động nhiều chiều của cuộc khủng hoảng lần này, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, sản xuất, gia công để hướng ra xuất khẩu làm cho nền kinh tế lệ thuộc sâu vào thế giới, nhưng lại xem nhẹ thị trường trong nước. Lúc sức tiêu thụ bên ngoài giảm mạnh, thì những mặt hàng gia công - xuất khẩu không dựa trên cơ sở nhu cầu thực tế của người tiêu dùng trong nước, nên lúng túng trước việc quay lại với thị trường nội địa. Đó là chưa nói tới đặc thù của nhu cầu thị trường trong nước cũng không hẳn trùng khớp với thị trường xuất khẩu. Có một sự giả định rằng, trong lúc nền kinh tế đang đương đầu với lạm phát gia tăng năm 2008 mà được "hỗ trợ" bởi lượng hàng hóa xuất khẩu quay trở lại thị trường trong nước do bị tác động bởi khủng hoảng kinh tế và suy thoái bên ngoài (với giả định là thị trường trong nước hấp thu được số hàng hóa xuất khẩu bị từ chối đó), thì có lẽ nền kinh tế đã có tốc độ tăng trưởng khác chứ không như hiện nay. Dường như Trung Quốc đã tận dụng được cơ hội này tốt hơn ta. Tỷ lệ mậu dịch trên GDP của Việt Nam là 156, trong khi của Trung Quốc là 71,3. Đối với Việt Nam, các sản phẩm nông nghiệp, nhiên liệu và khoáng sản chiếm 46,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, đối với Trung Quốc con số này chỉ là 6,7%. Trung Quốc cung cấp chính cho thị trường Việt Nam về máy móc, máy tính, hóa chất và hàng dệt may. Lượng trái cây và các loại rau nhập khẩu từ Trung Quốc lớn gấp 3 lần số lượng mà Trung Quốc mua của Việt Nam. Việt Nam xuất khẩu 70% mủ cao su sang Trung Quốc, nhưng các sản phẩm cao su chế tạo từ Trung Quốc chiếm tới 2/3 số mặt hàng này trên thị trường Việt Nam. Năm 2007 thặng dư thương mại với Mỹ đã giúp trang trải 92% thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc(3).
Theo đánh giá của tờ The Asian Age (Ấn Độ), ngày 23-10-2009, các gói kích thích kinh tế của Trung Quốc cũng có những khác biệt với Mỹ và phương Tây. Nếu chi tiêu của đại đa số các chính phủ, nhất là Mỹ, đều hướng vào tiêu thụ, dưới hình thức trợ cấp, tiền lương, phúc lợi y tế..., thì phần lớn các khoản kích thích kinh tế của Trung Quốc vừa qua được sử dụng để đầu tư cho sự tăng trưởng kinh tế trong tương lai: kết cấu hạ tầng, các công nghệ mới v.v..; khoảng 200 tỉ USD cho phát triển đường sắt (trong khi Mỹ chi chưa đầy 20 tỉ USD), ngoài ra còn xây dựng thêm các tuyến đường mới với tổng chiều dài khoảng 44.000 dặm, 100 sân bay mới sẽ đi vào hoạt động trong thập niên tới(4).
Thứ hai, tăng trưởng nhanh chủ yếu dựa vào các yếu tố mang tính chất "quảng canh"- theo chiều rộng, không chú ý các yếu tố chiều sâu. Khoảng 54% tăng trưởng là do yếu tố tăng vốn đầu tư. Năng suất của các nhân tố tổng hợp chậm được cải thiện, thậm chí giảm dần. Bởi vậy, càng thúc đẩy tăng trưởng nhanh, quy mô vốn, quy mô sản xuất càng phải tăng mạnh, trong lúc giá trị gia tăng thấp. Những khâu gia công xuất khẩu cũng thường có giá trị gia tăng thấp cộng với gánh nặng về xã hội, phải ưu tiên cho công nghệ sử dụng nhiều lao động để tạo nhiều việc làm và sự khai thác thái quá đặc điểm lao động rẻ,... Rút cục, càng tăng trưởng thì càng cần thu hút thêm nhiều đầu tư, nhưng đầu tư lại kém hiệu quả, hệ số ICOR càng tăng, năng lực cạnh tranh càng ít có điều kiện để được cải thiện. Số liệu thống kê cho thấy, ICOR của nền kinh tế nói chung và của các ngành nói riêng đều có xu hướng tăng trên cả ba khu vực: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bởi vậy, gần đây nhiều học giả đã nói đến cái bẫy của thu nhập trung bình, hay cái bẫy của việc theo đuổi tăng trưởng nhanh... chính là cảnh báo cho tính kém bền vững, kém đồng bộ và mất cân đối của nền kinh tế, mà muốn điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững là phải khắc phục được những khiếm khuyết cố hữu của nó.
Đã thế, trong điều hành vĩ mô cũng đang còn nhiều mặt tồn tại. Có lẽ trong nghiên cứu, các nhà kinh tế cũng nên xác định được rằng, đối với nền kinh tế đang cần đầu tư lớn (trong đó đầu tư dài hạn chiếm tỷ trọng đáng kể) để tăng trưởng nhanh, thì mức độ lạm phát an toàn hay hợp lý cho chính nền kinh tế Việt Nam(5) thường cũng cao hơn những nước công nghiệp phát triển, chứ không thể giống nhau được. Nếu lạm phát ở mức 3%, như IMF khuyến nghị, thì môi trường đầu tư không thể năng động được, chưa nói nền kinh tế có thể rơi vào trạng thái thiểu phát, thiếu tiền mặt trong lưu thông. Trên thực tế đã có lúc chúng ta vừa phải đối mặt với thiểu phát cục bộ, vừa chống lạm phát. Như Nhật Bản đang phải đối phó hiện nay thì thiểu phát cũng không kém phần nguy hiểm so với lạm phát.
Kích cầu, hay nói chuẩn xác hơn là kích thích kinh tế, có nghĩa là "tăng ga" cho "cỗ xe" kinh tế Việt Nam. Vấn đề là kích cầu có trọng tâm, trọng điểm. Chẳng hạn, kích thích tăng trưởng vào những lĩnh vực chiến lược mà khi kinh tế phục hồi thì chúng ta đã chuẩn bị mọi điều kiện để "cất cánh". Đó chính là cơ hội để đầu tư vào kết cấu hạ tầng và nông thôn, là căn chỉnh lại các cân đối lớn của nền kinh tế, như năng lượng, điện, hệ thống lưu thông phân phối; hay tập trung vốn để hoàn thành dứt điểm những công trình đầu tư sắp kết thúc, nhằm giảm tỷ lệ vốn đầu tư "chết" do các công trình chậm tiến độ, ngâm vốn và dàn trải hiện đang khá lớn... Kích thích kinh tế như vậy giống như một mũi tên trúng ít nhất hai đích sau:
- Những ngành, những lĩnh vực đó đòi hỏi phải đầu tư dài hạn, nên nó sẽ góp thêm cung tiền, làm cho lạm phát có thể nhích lên đôi chút, nhưng chúng ta tạo được việc làm, tăng thu nhập cho nền kinh tế mà không những không làm tăng thêm cung vốn đang bị thừa do khủng hoảng, nhất là cung tiêu dùng, mà còn tạo thêm cầu nhờ thu nhập của khối lao động trong khu vực này.
- Phát triển nông thôn chính là tạo nền tảng cho phát triển thị trường trong nước, vì số dân đông, nhưng thu nhập bằng tiền mặt rất hạn chế. Trung Quốc đã khai thác rất tốt đặc điểm này của kinh tế Việt Nam. Nhìn vào các sạp hàng tiêu dùng tại Việt Nam, đa phần là hàng hóa nhập từ Trung Quốc, từ cái kim, sợi chỉ, đến đồ chơi các loại... với giá rất rẻ, hợp túi tiền của đa số dân nghèo. Nên không khéo kích cầu lại rơi vào hàng nhập khẩu giá rẻ chính là ở khâu này. Doanh nghiệp Việt Nam đã làm được khá nhiều, nhưng chắc chắn là chưa đủ. Bởi vậy, chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng, nếu cân nhắc thấy thật sự cần thiết cho nền kinh tế, mà khu vực tư nhân và khu vực đầu tư nước ngoài không làm, thì nhất thiết phải đầu tư từ ngân sách, trong đó có việc phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước.
Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế hiện nay là phải nhắm đến thời kỳ kinh tế thế giới phục hồi hoàn toàn với hy vọng có sự thay đổi nào đó trong trật tự kinh tế thế giới, đồng thời tìm cách để kinh tế Việt Nam tham gia tốt nhất vào chuỗi giá trị toàn cầu, phân công lao động toàn cầu. Muốn làm được điều đó, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế phải gắn chặt với điều chỉnh cơ cấu lại thị trường, bao gồm thị trường trong nước, thì trường nước ngoài, và mối quan hệ giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
(1) Đối với nền kinh tế Việt Nam, số liệu thống kê năm 2009 cho thấy, GDP toàn nền kinh tế tăng trưởng 5,32%, nhưng GDP tính theo tổng cầu thì tiêu dùng cuối cùng tăng 4,19%, trong đó tiêu dùng của Nhà nước tăng 7,6%, tiêu dùng của hộ gia đình tăng 3,85%; tích lũy tài sản tăng 4,31%; xuất khẩu tăng 11,08%, nhập khẩu tăng 6,66%
(2) Theo nhiều tài liệu, ở các ngân hàng thương mại, tỷ lệ này thường bị khống chế ở mức 12 lần, nhưng ở các ngân hàng đầu tư, tỷ lệ này cao hơn rất nhiều và thường trên 20 lần. Từ năm 1975, các ngân hàng đầu tư không được phép có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn 15 lần. Tuy nhiên, từ năm 2004, ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) đã bãi bỏ quy định này đối với 5 "đại gia" phố Wall (Goldman Sachs, Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bear Stearns và Morgan Stanley). Theo một số tính toán, tính đến đầu năm 2008, cả 5 ngân hàng này đều có tỷ lệ đòn bẩy tài chính rất cao, xấp xỉ hoặc hơn 30 lần. Chính vì vậy, không ngạc nhiên khi 2 "đại gia" bất động sản Freddie Mac và Fannie Mae với đòn bẩy tài chính hơn 60 lần là những nạn nhân đầu tiên của cuộc khủng hoảng
(3) Thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo, ngày 22-10-2009
(4) Thông tấn xã Việt Nam: Bản Tin kinh tế tham khảo, ngày 24-10-2009
(5) Lê Xuân Đình: “ổn định tiền tệ và năng động hóa môi trường đầu tư”, Tạp chí Cộng sản, số 23, 1999
(6) http:// www.tapchicongsan.org.vn/details. asp?Object= 4& News_id=24356918
Mục lục Hồ sơ sự kiện số 116 (21-5-2010)  (19/05/2010)
Kinh nghiệm bước đầu thực hiện bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư đảng bộ cơ sở ở Quảng Ninh  (19/05/2010)
Năm 2010, có ít nhất 55% số đơn vị hưởng lương từ ngân sách trả lương qua tài khoản  (19/05/2010)
Có tập thể vĩ đại ấy mới có Đảng ta vĩ đại  (19/05/2010)
Có tập thể vĩ đại ấy mới có Đảng ta vĩ đại  (19/05/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm