Đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân - nhân tố quan trọng góp phần quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
TCCS - Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hai lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng, Nhà nước, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hơn 70 năm qua, kể từ khi ra đời đến nay, trải qua các giai đoạn cách mạng, được Đảng và Bác Hồ giáo dục, rèn luyện, được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn, gian khổ đến đâu, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân.
Cách đây gần 75 năm, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập. Kế thừa, phát huy, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của dân tộc, Quân đội nhân dân đã lập nên nhiều chiến công vang dội, mở đầu truyền thống “quyết chiến, quyết thắng”. Ngày 19-8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội cũng là ngày truyền thống của Công an nhân dân Việt Nam. Cùng với sự ra đời của bộ máy chính quyền cách mạng trong cả nước, các tổ chức đầu tiên của Công an nhân dân được lập ra để thực hiện nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Ngay từ khi thành lập, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã phối hợp thực hiện nhiệm vụ chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Tám. Lực lượng công an nhân dân và quân đội nhân dân cùng với các đoàn thể quần chúng, các tầng lớp nhân dân bảo vệ tuyệt đối an toàn cuộc mít-tinh lớn vào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Hai lực lượng phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh chống phản cách mạng bên trong và sự can thiệp của các thế lực thù địch bên ngoài, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền non trẻ và nhân dân. Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(1), quân đội nhân dân cùng công an nhân dân và nhân dân cả nước nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, gây “chấn động địa cầu”, là một nét son tô thắm truyền thống phối hợp, hiệp đồng giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1945) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền; đồng thời, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hình ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” và người chiến sĩ “Công an cách mạng” sát cánh cùng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới và đấu tranh thống nhất đất nước, đã trở thành một hình mẫu của sự đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu.
Ở miền Bắc, lực lượng công an nhân dân vũ trang cùng công an các tỉnh biên giới đã chủ động phối hợp với các quân khu tiến hành chiến dịch tiễu phỉ, dẹp bạo loạn ở Kỳ Sơn (tỉnh Nghệ An), Phong Thổ (tỉnh Lai Châu), Bát Xát (tỉnh Lào Cai), Đầm Hà (tỉnh Quảng Ninh), Pù Nhi (tỉnh Thanh Hóa), Đồng Văn (tỉnh Hà Giang); tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ tổ chức phỉ, góp phần bảo vệ sự bình yên của nhân dân nơi biên cương Tổ quốc. Giữa lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, hai lực lượng đã sát cánh cùng các tầng lớp nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ. Công an nhân dân đã phối hợp với các đơn vị chức năng của Quân đội nhân dân làm trong sạch địa bàn, bóc gỡ mạng lưới gián điệp của địch cài lại; câu nhử, bắt giữ hàng trăm toán gián điệp, biệt kích xâm nhập vào miền Bắc; bảo vệ an toàn các trận địa, mục tiêu, cơ sở quốc phòng. Qua đó, góp phần cùng toàn dân làm thất bại hoàn toàn âm mưu phá hoại của địch; bảo vệ vững chắc hậu phương chiến lược cho cách mạng miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân năm 1968 cùng với những thắng lợi trên khắp chiến trường miền Nam đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri (năm 1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, theo đó, Mỹ rút toàn bộ quân viễn chinh xâm lược khỏi miền Nam Việt Nam.
Trên khắp chiến trường miền Nam, lực lượng quân đội và công an đã đồng cam cộng khổ, bám đất, bám dân, cùng nhau xây dựng cơ sở cách mạng; tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, phát triển chiến tranh nhân dân rộng khắp, góp phần cùng nhân dân làm thất bại các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ; tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Sự phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân giải phóng miền Nam Việt Nam với lực lượng an ninh miền Nam là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, tô thắm thêm truyền thống đoàn kết của hai lực lượng vũ trang trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Sau khi hoàn toàn thống nhất, đất nước bước vào thời kỳ mới. Phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngoài nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới, Công an nhân dân và Quân đội nhân dân còn phối hợp bảo đảm an ninh, trật tự trên các địa bàn, bóc gỡ nhiều nhen nhóm phản động; ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động xâm nhập phá hoại từ bên ngoài của các tổ chức phản động lưu vong được sự trợ giúp của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.
Đại hội VI của Đảng với đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để đã đánh dấu thời kỳ mới đối với cách mạng Việt Nam. Trong hơn 30 năm đổi mới đất nước, lực lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân đã chủ động phối hợp nắm tình hình, triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh. Nhờ có bước chuyển quan trọng từ tư duy bạn - thù sang đối tác - đối tượng, nước ta đã từng bước thoát khỏi thế bị bao vây cấm vận; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; mở rộng hợp tác về nhiều mặt với hầu hết các quốc gia trên thế giới; từng bước thiết lập quan hệ “đối tác toàn diện”, “đối tác chiến lược”, “đối tác chiến lược toàn diện” với các nước lớn, các nước bạn bè. Trong đó, lĩnh vực quốc phòng, an ninh đã có những bước chuyển mạnh mẽ, như chủ động tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, mở rộng quan hệ đối ngoại về quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm với các đối tác, không phân biệt thể chế chính trị. Công an nhân dân và Quân đội nhân dân đã phối hợp bảo đảm tuyệt đối an toàn các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các sự kiện quốc tế quan trọng được tổ chức tại Việt Nam, các đoàn khách quốc tế và các cơ quan ngoại giao nước ngoài ở Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những năm gần đây, trước diễn biến mới, phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, Đảng, Nhà nước đặc biệt coi trọng và quan tâm chỉ đạo việc phối hợp giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mối quan hệ về quốc phòng, an ninh đã được thể hiện toàn diện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); trong văn kiện các kỳ đại hội của Đảng; trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (năm 2003) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (năm 2013) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Bộ Công an và Bộ Quốc phòng đã chủ động phối hợp tham mưu xây dựng nhiều văn bản pháp luật về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đặc biệt là Nghị định số 77/2010/NĐ-CP, ngày 12-7-2010, của Chính phủ, về “Phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng” và Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 5-9-2019, của Chính phủ, về “Phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng”.
Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự phối hợp giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân ngày càng toàn diện và đi vào chiều sâu. Hai lực lượng đã cùng nhau thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh gắn với các yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, kết hợp chặt chẽ với các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước và nhân dân; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, hiện đại, bền vững. Đồng thời, hai lực lượng đã tập trung phối hợp thực hiện nhiệm vụ phòng, chống bạo loạn, khủng bố, phá hoại; bảo đảm an ninh, trật tự, phòng, chống tội phạm trên các tuyến, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái; giáo dục quốc phòng - an ninh và nghiên cứu khoa học, công nghệ, xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, từ khi ra đời đến nay, dù ở đâu, với nhiệm vụ khó khăn, gian khổ thế nào, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân luôn phát huy cao độ truyền thống đoàn kết, gắn bó keo sơn, với tinh thần trách nhiệm cao; cùng toàn Đảng, toàn dân ta làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khẳng định những thành công, chúng ta cũng cần nhận thấy việc phối hợp giữa hai lực lượng cũng còn có những hạn chế nhất định; đồng thời, tiếp tục đứng trước những thách thức mới, xuất phát từ những diễn biến phức tạp, nhiều yếu tố bất định của tình hình thế giới, khu vực và trong nước.
Những năm tới, tình hình thế giới vẫn chuyển biến phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi. Tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông gia tăng, tạo ra thách thức lớn đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh, trật tự của đất nước. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ diễn biến đa dạng. Các thế lực thù địch ở nước ngoài không ngừng câu kết với các phần tử chống đối ở trong nước tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, truyền bá các quan điểm sai trái, tìm cách “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tội phạm và vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề an ninh phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, an ninh mạng... đang hằng ngày, hằng giờ tác động đến việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và cuộc đấu tranh với các thế lực thù địch, tội phạm, ngăn chặn các mối đe dọa đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia sẽ rất phức tạp. Kẻ thù và các đối tượng sẽ sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, thâm độc; tận dụng các thành tựu của khoa học, kỹ thuật hiện đại, với các loại vũ khí công nghệ cao, kết hợp với “diễn biến hòa bình” phá hoại văn hóa, tư tưởng; dùng sức ép về chính trị, kinh tế để buộc chúng ta phải khuất phục. Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc; động viên mọi tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Là lực lượng vũ trang trọng yếu, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sự phối hợp chặt chẽ giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Trong tình hình mới, sự phối hợp giữa hai lực lượng cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:
Một là, sự phối hợp giữa hai lực lượng phải được nâng lên tầm cao mới, tạo được sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, hóa giải các mối đe dọa từ bên trong cũng như bên ngoài đối với nền an ninh, trật tự của đất nước. Chú trọng quán triệt sâu sắc nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Nâng cao hiệu quả phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và phát huy vai trò, thế mạnh, sở trường của từng lực lượng.
Hai là, xác định rõ vai trò, trách nhiệm phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ sự phối hợp giữa hai lực lượng là vấn đề có tính quy luật. Quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng và Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau”(2).
Ba là, hai lực lượng tiếp tục tham mưu với Đảng, Nhà nước đổi mới cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trong đó có hoạt động phối hợp giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Phối hợp triển khai có hiệu quả Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 5-9-2019, của Chính phủ, về “Phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng” (thay thế Nghị định số 77/NĐ-CP, ngày 12-7-2010), đồng thời rà soát các quy chế phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng trên các địa bàn, lĩnh vực để thống nhất thực hiện.
Bốn là, tăng cường trao đổi thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình giữa hai lực lượng, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước chủ động đề ra chủ trương, giải pháp xử lý những vấn đề phức tạp, cấp bách nảy sinh có liên quan đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Chú trọng phối hợp trong tham mưu và trực tiếp tiến hành xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh vững mạnh. Trong đó, đặc biệt chú ý trong phối hợp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, thực sự là lực lượng trung thành, tin cậy, là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Năm là, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 29-9-2019, của Bộ Chính trị, về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, hai lực lượng cần có sự phối hợp chặt chẽ trong xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa lực lượng vũ trang. Vũ khí, khí tài, công cụ hỗ trợ giữ vai trò rất quan trọng nhưng yếu tố con người mới là nhân tố quyết định. Vì vậy, cần phối hợp trong giáo dục, bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, có đủ tri thức khoa học, kỹ thuật và ngoại ngữ để làm chủ vũ khí, công nghệ hiện đại. Đồng thời, bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của hai lực lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Sáu là, phối hợp nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng - an ninh cho các đối tượng theo tinh thần Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 3-5-2007, của Bộ Chính trị khóa X, về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng - an ninh trong tình hình mới”, các quy định của Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013. Đổi mới chương trình và phương pháp giáo dục quốc phòng - an ninh cho sát hợp với từng loại đối tượng và đặc điểm địa bàn, nhằm đưa công tác này đi vào chiều sâu và đạt kết quả thiết thực.
Bảy là, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hai lực lượng cần chủ động phối hợp tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định các chủ trương, chính sách đối ngoại phù hợp. Tăng cường phối hợp trong tham gia các diễn đàn đa phương, song phương về quốc phòng, an ninh, đặc biệt là trong năm Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Nâng tầm và đưa các hoạt động hợp tác trong giải quyết các vấn đề an ninh với các quốc gia đi vào thực chất và có hiệu quả.
Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, sự đoàn kết, hiệp đồng, gắn bó keo sơn giữa hai lực lượng đã trở thành truyền thống quý báu và là nhân tố làm nên thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nó sẽ tiếp tục được phát huy, nhân lên sức mạnh tổng hợp trong điều kiện mới, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 4, tr. 534
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 9, tr. 403
Phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong tình hình mới  (20/02/2020)
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay  (13/02/2020)
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới  (13/02/2020)
Công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế  (06/02/2020)
Xây dựng hình ảnh người Công an Thủ đô vì nhân dân phục vụ  (31/12/2019)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển