Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
TCCS - Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, nhằm kịp thời thể chế hóa quan điểm, đường lối quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là bước phát triển quan trọng về nhận thức, tư duy lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị và được hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng. Đại hội XII xác định mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Để cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm trên, những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, như “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”; “Chiến lược Quân sự Việt Nam”; “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”; “Chiến lược Bảo vệ an ninh quốc gia”; “Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia”. Cùng với đó, Nhà nước đã xây dựng, ban hành mới và bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quốc phòng, an ninh: Luật Quốc phòng (sửa đổi năm 2018), Luật An ninh quốc gia, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Công an nhân dân (sửa đổi năm 2018), Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015, Luật Dân quân tự vệ, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015,... Đây là bước tiến quan trọng, nhằm thể chế hóa một cách đồng bộ các quan điểm của Đảng, nhất là những tư duy, quan điểm mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng các văn bản quy phạm pháp luật - cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng. Đồng thời, cũng là căn cứ để chỉ đạo các cấp, các ngành, các lực lượng và địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền thống, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Một dấu mốc rất đáng chú ý: Năm 2013, Quốc hội khóa XIII thông qua Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 2013) quy định nhiều nội dung mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, có quy định về quyết định điều, cử lực lượng quân đội tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
Căn cứ vào Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và để khắc phục những hạn chế, bất cập sau 10 năm thực hiện Luật Quốc phòng năm 2005, Chính phủ đã giao Bộ Quốc phòng xây dựng Dự án Luật Quốc phòng (sửa đổi) và đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ năm, ngày 8-6-2018. Trong đó, có những nội dung quan trọng được sửa đổi, bổ sung, như: Kiên định và làm rõ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ quốc phòng, khẳng định nguyên tắc hoạt động quốc phòng phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; quy định về Hội đồng Quốc phòng và an ninh; bổ sung yếu tố văn hóa, đối ngoại trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tiềm lực khu vực phòng thủ; kết hợp quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội và kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng; thể chế hóa quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế,... Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục xây dựng, sửa đổi các luật chuyên ngành, nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng.
Cùng với việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất đối với sự nghiệp quốc phòng được thực hiện nghiêm túc; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng được nâng lên. Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việc xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng được đẩy mạnh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, chúng ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch vẫn tăng cường các hoạt động chống phá, nhất là trước thềm Đại hội XIII của Đảng. Tình hình nói trên đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng mặc dù đã được xây dựng tương đối đầy đủ, nhưng chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, có nội dung chưa phù hợp..., cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng ta về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Điều lệ Đảng và các văn kiện đại hội Đảng. Trong đó, nêu bật nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh”. Đây là nguyên tắc cơ bản, quy định chức năng lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, từ việc xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương chiến lược về quốc phòng, an ninh đến xây dựng các kế hoạch mang tính chiến lược của quốc gia.Thực tiễn lịch sử dân tộc ta kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, quân và dân ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong các cuộc chiến tranh giải phóng, bảo vệ Tổ quốc và ngày nay đang tiếp tục lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có hệ thống, đồng bộ, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, hiệu quả từ Trung ương đến các địa phương.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định, nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”(1). Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng để thể chế hóa quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất đối với sự nghiệp quốc phòng; khẳng định nhất quán chính sách quốc phòng của Việt Nam, đó là giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ mỗi quốc gia.
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Đây là quan điểm xuyên suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhất là trong bối cảnh, tình hình mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Các nhiệm vụ này phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng, tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Trong đó, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh để tạo môi trường, tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; ngược lại, mỗi thành quả của nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh của quốc gia. Vì vậy, cần tăng cường giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc hơn nữa sự nghiệp quốc phòng, an ninh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Qua đó, đề cao trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng và tổ chức thực hiện.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng, cần coi trọng xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao, thực sự là hạt nhân lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát; tiếp tục hoàn thiện phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng. Đồng thời, chú trọng kiện toàn cơ quan, đội ngũ cán bộ làm công tác quốc phòng ở các bộ, ngành; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có cơ chế phù hợp để động viên, khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, chức sắc tôn giáo thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng.
Quản lý nhà nước về quốc phòng có vai trò hết sức quan trọng trong nâng cao chất lượng, hiệu quả sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở cần nắm vững những đặc điểm, mục tiêu, yêu cầu, nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng; phương pháp quản lý theo ngành, địa phương, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ; các biện pháp tăng cường giáo dục quốc phòng và an ninh. Từng bước hoàn thiện bộ máy, cơ chế quản lý nhà nước, hệ thống chính sách, pháp luật và không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng.
Hiện nay và trong thời gian tới, đất nước sẽ có nhiều chuyển biến mạnh, nền kinh tế phát triển nhanh khiến cấu trúc xã hội không ngừng thay đổi và hội nhập sâu hơn vào khu vực và thế giới; nhiệm vụ quốc phòng đặt ra ngày càng cao, lực lượng tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc rất đa dạng. Điều đó đòi hỏi quản lý nhà nước về quốc phòng phải khoa học, đồng bộ và có tính pháp lý rất cao. Do vậy, phải tiếp tục xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, an ninh ngày càng hoàn chỉnh, thể hiện ở kế hoạch tổng thể và được xác định trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành, địa phương trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, phải có sự phân công, phân cấp, xác định rõ ràng, cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý và triển khai thực hiện của từng cấp, ngành, địa phương; mối quan hệ giữa các cấp, các ngành; cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy trong các tình huống, trong từng nhiệm vụ.
Trên cơ sở nhận thức về mục tiêu, đặc điểm quản lý nhà nước về quốc phòng, cần quán triệt và thực hiện tốt quan điểm của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, mà nội hàm cốt lõi là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Ba là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng.
Hệ thống văn bản pháp luật về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện, bảo đảm thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, như hành chính, tài chính, đất đai, dân sự, lao động, hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, kinh tế, quốc phòng, quốc tế,... Pháp luật hóa quản lý nhà nước về quốc phòng phải phù hợp với yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phải có bước đi thích hợp, đồng bộ. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung một số luật, pháp lệnh về quốc phòng, trong thời gian tới, Quốc hội cần tiếp tục xem xét, ban hành một số luật mà nội dung đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị, như Luật về tình trạng khẩn cấp, Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh, Luật về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, Luật Phòng thủ dân sự, Luật Biên phòng Việt Nam, luật hoặc nghị quyết của Quốc hội về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc,... Trong đó, Luật về tình trạng khẩn cấp sẽ điều chỉnh việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong tình huống đặc biệt, cần được tiến hành xây dựng khẩn trương để sớm tạo dựng hành lang pháp lý, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các quyền tự do, dân chủ của công dân ngày càng được mở rộng, các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội để chống phá ta. Ban hành Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo đúng quan điểm của Đảng được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Ban hành Luật về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế để vừa phù hợp với yêu cầu của quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với nền kinh tế của đất nước, vừa kế thừa và phát huy chính sách “ngụ binh ư nông” trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cụ thể hóa chủ trương, nguyên tắc hiến định về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Việc ban hành Luật Phòng thủ dân sự là cần thiết, vì phòng thủ dân sự là một trong những nội dung chủ yếu, quan trọng của xây dựng nền quốc phòng toàn dân...
Việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là một nội dung rất quan trọng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hơn thế nữa, đây cũng là thời điểm thích hợp để Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh về quốc phòng; trong đó, quy định các vấn đề về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ và Công an nhân dân, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ và chặt chẽ về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án luật nói trên, các cơ quan của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, nhất là các cục chức năng thuộc Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng,... chủ động phối hợp với các cơ quan thuộc các ban, ngành ở Trung ương có liên quan nghiên cứu, cụ thể hóa chức năng, mối quan hệ, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên phạm vi cả nước.
Về cơ chế vận hành của hệ thống chính trị trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, cần quán triệt quan điểm: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, lực lượng vũ trang làm nòng cốt”. Trong đó, tiếp tục nghiên cứu việc xác lập và vận hành cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở các bộ, ngành và địa phương, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, sát với điều kiện, đặc điểm, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Đồng thời, nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hóa các chính sách, pháp luật trong các tình huống và trạng thái quốc phòng, an ninh, các quy chế, quy trình, thủ tục trong chỉ đạo, quản lý, điều hành của các cấp, các ngành, các địa phương trong xử trí các tình huống khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, xung đột vũ trang hoặc chiến tranh; điều chỉnh, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách quốc phòng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, môi trường trong thời kỳ mới.
Bốn là, bám sát sự phát triển của nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng, trung tâm nghiên cứu, hệ thống học viện, nhà trường trong Quân đội đẩy mạnh nghiên cứu, tham gia tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận nói chung, lý luận về lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc nói riêng, làm cơ sở để tham gia đóng góp với Đảng, Nhà nước những luận điểm quan trọng, thiết thực về công tác quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Bộ Quốc phòng tích cực nghiên cứu, phát triển tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng khu vực phòng thủ, thế trận quốc phòng toàn dân; hình thành tư duy, quan điểm mới liên quan đến sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng Quân đội nhân dân, cung cấp luận cứ để Đảng, Nhà nước hoạch định các chủ trương, đường lối, pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng trong tình hình mới.
Thực tiễn luôn vận động, phát triển, sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đang đứng trước nhiều vấn đề mới, phức tạp chi phối, tác động đến nhận thức, tư duy lý luận, xây dựng thế trận, lực lượng..., cần phải được nghiên cứu, dự báo thấu đáo để rút ra những vấn đề mới làm cơ sở đề xuất, tham mưu cho việc hoạch định đường lối, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách quốc phòng. Đồng thời, tiến hành rà soát hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng; thường xuyên bám sát thực tiễn xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, nắm vững tình hình quốc tế, khu vực, nhất là trên Biển Đông; nhận thức đúng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng; những vấn đề về chiến lược quốc phòng; xây dựng Quân đội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,... để phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Các cơ quan chức năng, trung tâm nghiên cứu, hệ thống học viện, nhà trường trong Quân đội cần bám sát đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng; sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị; đề cao trách nhiệm chính trị, tiếp tục làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm cơ sở đề xuất với Đảng, Nhà nước việc hoạch định đường lối, phát triển, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, phù hợp với sự phát triển của thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Vì vậy, cần phải có một hệ thống pháp luật, chính sách quốc phòng đồng bộ và được tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống./.
------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 148
Tổng quan an ninh quân sự toàn cầu năm 2019 và dự báo năm 2020  (06/02/2020)
Kế thừa, phát huy truyền thống xây dựng nền quốc phòng toàn dân để thực hiện kế sách “giữ nước từ khi nước chưa nguy”  (28/01/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm