Do những tác động qua lại với các yếu tố kinh tế, xã hội trong và ngoài nước, cũng như những ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông trong môi trường toàn cầu hóa mà báo chí Việt Nam hiện nay đã có những biến đổi cả về lượng và chất, cả về nội dung thông tin và phương pháp hành xử, cả về tiềm lực được tích lũy cũng như khả năng tác động vào đời sống xã hội. Việc nhận thức một cách đầy đủ, thực chất sự phát triển cũng như những đặc điểm phát triển của nền báo chí hiện nay là một điều kiện đặc biệt quan trọng, cần thiết để dự đoán xu hướng vận động tiếp theo, hình thành những giải pháp, những phương tiện tác động, đặc biệt là tác động về mặt quản lý, nhằm phát huy tích cực nhất vai trò, sức mạnh của nền báo chí truyền thông đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

1 - Sự phát triển mạnh mẽ hệ thống báo chí theo khuynh hướng đa phương tiện

Sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, nếu như nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn, thì lĩnh vực báo chí truyền thông của đất nước cũng đã có những thay đổi chưa từng thấy. Hiện nay trong cả nước đã có tới 600 tờ báo in với 750 ấn phẩm, có Đài Phát thanh Quốc gia, Đài Truyền hình Quốc gia, tất cả các tỉnh, thành đều có đài phát thanh, đài truyền hình của tỉnh, thành và hơn 600 đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện. Ngoài ra còn có hơn 50 tờ báo điện tử và 250 trang tin điện tử.

Sự tăng trưởng của báo chí Việt Nam trong hơn 20 năm qua gắn bó chặt chẽ với sự phát triển về loại hình. Trước hết, phải kể đến sự phát triển phong phú các loại hình báo in. Ngoài các ấn phẩm định kỳ vốn có như: nhật báo, tuần báo, báo thưa kỳ, tạp chí, bản tin.., đã xuất hiện những tờ tạp chí - magazin với nội dung thiên về giải trí và mục đích rõ ràng là tập trung thu hút quảng cáo. Điều ấy cũng có nghĩa là đã xuất hiện một loại sản phẩm báo chí có mục đích thương mại rõ ràng. Mặt khác, nếu vào thời điểm năm 1986, cả nước mới chỉ có 5 tờ nhật báo thì hiện nay, số lượng nhật báo đã lên đến trên 20. Một số tờ báo của ngành, đoàn thể ở trung ương hay các thành phố lớn cũng đã ra hàng ngày.

Nổi bật nhất là sự tăng trưởng với tốc độ lớn về số lượng người sử dụng In-tơ-nét và các tờ báo, trang thông tin trên mạng. Tính đến tháng 11-2006 đã có đến 13,7 triệu người sử dụng In-tơ-nét, chiếm khoảng 16,5% dân số Việt Nam. Trong khi đó, ở Thái Lan chỉ có 7,08 triệu người, tức là hơn 10% dân số, sử dụng In-tơ-net(1). Số liệu tương tự năm 2003 của Việt Nam là 5,3 triệu người, 6,7% dân số. Tức là, ở Việt Nam trong 3 năm qua, số lượng người sử dụng In-tơ-nét tăng bình quân 30% - 40% mỗi năm. Nên nhớ rằng, việc chính thức đưa vào sử dụng In-tơ-nét ở Việt Nam chỉ mới bắt đầu từ năm 1997.

Đồng thời với sự gia tăng của các sản phẩm báo chí là sự phát triển đội ngũ người làm báo, bao gồm các nhà báo và những người đảm nhiệm những công việc chuyên môn khác nhau trong toàn bộ quy trình làm ra và đưa các sản phẩm báo chí đến công chúng xã hội. Nếu năm 1991, có gần 7.000 nhà báo, thì hiện nay cả nước đã có hơn 15.000 nhà báo được phát thẻ. Tức là số lượng nhà báo chuyên nghiệp đã tăng gấp 2 lần trong vòng 15 năm. Đó là chưa kể hàng chục nghìn người đang làm việc tại hơn 600 đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện, ở các bản tin định kỳ ở các cơ quan, doanh nghiệp, hoặc làm những công việc dịch vụ, kỹ thuật trong các cơ quan báo chí bảo đảm cho quá trình tác nghiệp của các nhà báo v.v..

Sự phát triển nhanh chóng In-tơ-nét và các loại hình báo in tạo ra sức ép, làm cho người ta buộc phải tìm ra phương hướng phát triển thích hợp, nếu như muốn sản phẩm báo chí được công chúng tiếp nhận. Phương hướng ấy được thể hiện khá rõ ở sự đa dạng hóa về loại hình và phương tiện ở các cơ quan báo chí lớn. Hầu như tất cả các cơ quan báo chí đáng kể đều có trang website song hành với loại hình báo chí truyền thống. Một số tờ báo đơn nhất đã thực sự trở thành những cơ quan báo chí đa phương tiện với việc xuất bản đồng thời nhiều loại hình sản phẩm báo chí khác nhau như: nhật báo, tuần báo, nguyệt san, chuyên san, báo buổi chiều, báo mạng điện tử. Sự tồn tại đồng thời các loại hình sản phẩm báo chí truyền thông khác nhau cho phép các cơ quan báo chí có thể mở rộng phạm vi ảnh hưởng, tạo điều kiện cho các loại hình sản phẩm hỗ trợ lẫn nhau về mặt tài chính, quảng bá thương hiệu, cũng như tận dụng các khả năng khai thác thông tin, tư liệu.

2 - Đa dạng hóa thông tin đồng thời với chuyên biệt hóa đối tượng

Sự phát triển để trở thành đa dạng hóa thông tin đồng thời với chuyên biệt hóa đối tượng tiếp nhận thông tin vừa là kết quả có tính lô-gíc của việc tăng nhanh số lượng, chủng loại sản phẩm báo chí truyền thông, vừa là hệ quả tất yếu của những tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và kỹ thuật - công nghệ trong quá trình thực hiện chính sách đổi mới ở Việt Nam.

Trước hết là sự mở rộng mạnh mẽ các nguồn tin trong nước và ngoài nước. Ở trong nước, trình độ dân trí nói chung được nâng cao hơn. Điều đó làm cho người dân quan tâm hơn đến báo chí, trở thành nguồn thông tin ngày càng rộng lớn, tích cực của báo chí. Mặt khác, những chính sách mở rộng và phát huy dân chủ đã thực sự tạo ra không khí cởi mở trong xã hội, tạo cho người dân ngày càng nhiều khả năng và điều kiện thực tế để tham gia nhiều hơn vào việc thảo luận, phát biểu ý kiến về các vấn đề chung của cộng đồng, của đất nước.

Sự ra đời của Luật Báo chí năm 1990 và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam "phát triển đi đôi với quản lý báo chí" đã tạo ra hành lang pháp lý cùng một không gian tự do rộng lớn cho sự phát triển mở rộng phạm vi và năng lực thông tin của hệ thống báo chí truyền thông quốc gia. Đến lượt nó, chính sự phát triển báo chí lại đặt ra yêu cầu, khuyến khích và thúc đẩy việc mở rộng nguồn thông tin - một điều kiện vô cùng quan trọng trong tác nghiệp của người làm báo.

Trên phạm vi quốc tế, sự mở rộng các quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao nhà nước cũng như nhân dân kéo theo việc mở rộng khai thác, trao đổi thông tin báo chí dưới nhiều hình thức khác nhau như: thông qua trao đổi tin tức thông tấn, mở thêm mạng lưới phóng viên thường trú nước ngoài, trao đổi các đoàn nhà báo đi thăm quan, nghiên cứu, trao đổi các sản phẩm báo chí, các chương trình phát thanh, truyền hình v.v..

Sự mở rộng nguồn tin tất yếu dẫn đến sự đa dạng hóa thông tin chuyển tải trên hệ thống báo chí. Trên các trang báo, tạp chí, trong các chương trình phát thanh, truyền hình, các trang thông tin điện tử, lượng thông tin bao quát toàn diện kể từ không gian địa lý, các lĩnh vực đời sống xã hội, đến các chiều hướng, tính chất, các tầng nấc ý nghĩa chính trị - xã hội.

Đối với từng sản phẩm cụ thể, chiều hướng phát triển chung là ngày càng chuyên biệt hóa, thích ứng với nhu cầu, thị hiếu của từng loại đối tượng cụ thể. Việc phân biệt các loại đối tượng vẫn theo những tiêu chí chung như: lứa tuổi, nghề nghiệp, địa lý, trình độ văn hóa, đặc điểm thị hiếu, tuy nhiên được tính tới những yếu tố, điều kiện, yêu cầu, mục đích tác động thông tin. Theo chiều hướng đó, ở mức độ nhất định đã xuất hiện hiện tượng cạnh tranh và trên thực tế đã có nhiều sản phẩm báo chí đã tự điều chỉnh mô hình thông tin để tìm kiếm khai thác công chúng, tạo cơ sở cho sự tồn tại, phát triển.

3 - Tăng cường vai trò và sức mạnh tác động xã hội

Theo một số nghiên cứu gần đây cho biết, hệ thống báo chí cung cấp khoảng 70% lượng thông tin chung cho người dân. Ở một số lĩnh vực như: thời sự chính trị - xã hội, dự báo biến đổi khí hậu, thời tiết và thiên tai v.v.., báo chí giữ ưu thế tuyệt đối. Nói cách khác, tuyệt đại bộ phận thông tin về những lĩnh vực này, người dân đều tiếp nhận được từ báo chí. Một số lĩnh vực khác như: thể thao, giải trí.., ưu thế cũng dần dần chuyển về phía báo chí. Vào thời điểm hiện nay, số lượng công chúng đến các nhà hát, rạp chiếu phim đã được hồi phục một phần, nhưng còn kém xa thời kỳ mà truyền hình chưa phát triển. Thực ra thì, nhà hát, rạp chiếu phim và cả sân vận động đều đã trở thành quá nhỏ bé và yếu ớt trước người khổng lồ - Truyền hình.

Hệ thống báo chí tác động, tạo ra ảnh hưởng to lớn về văn hóa, lối sống xã hội. Nhiều hình ảnh, kiểu mốt, ngôn từ và cách hành xử thể hiện trong các chương trình truyền hình, các trang báo đã nhanh chóng xâm nhập vào cuộc sống. Tầng lớp thanh niên trở thành bộ phận nhậy cảm nhất trong xã hội, phản ánh rõ nét nhất những ảnh hưởng về văn hóa, lối sống từ thông tin báo chí. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy ở các thanh niên, học sinh, sinh viên những kiểu tóc, màu tóc, mốt quần áo của các cầu thủ bóng đá, các ca sĩ, diễn viên điện ảnh nổi tiếng, các nhân vật trong các chương trình phim truyền hình nước ngoài.

Trong những năm gần đây, báo chí có ảnh hưởng ngày càng to lớn trong việc thúc đẩy tiến trình các sự kiện. Nói cách khác, báo chí không chỉ đơn thuần là người đưa tin, phản ánh thụ động các sự kiện. Hơn thế nữa, nó còn đóng vai trò ngày càng tích cực, tham gia trực tiếp vào các sự kiện như một trong những yếu tố, những điều kiện thúc đẩy và quy định chiều hướng vận động của các sự kiện. Bản chất của vai trò đó chính là áp lực của dư luận xã hội do báo chí tạo ra. Có thể nhận biết tác động này một cách rõ ràng trong các vụ án lớn về tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong thời gian vừa qua như vụ Năm Cam, vụ đất đai ở Đồ Sơn - Hải Phòng, vụ PMU 18...

Không thể không kể đến ảnh hưởng của báo chí trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò này của báo chí thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tổng kết thực tiễn, đưa ra những cơ sở cho việc xây dựng các chính sách mới; phát hiện và tạo dư luận xã hội về yêu cầu, đòi hỏi có quyết định quản lý mới; phát hiện những khiếm khuyết, hạn chế hoặc lỗi thời, bất hợp lý của các chính sách hiện hành; bày tỏ nguyện vọng, góp ý bàn thảo để hoàn thiện các chính sách, chế độ mà Nhà nước chuẩn bị ban hành. Trên thực tế, một số dự thảo luật, chế độ quy định đã có những thay đổi quan trọng, thậm chí đã không được ban hành sau khi được đưa ra thảo luận trên báo chí.

Ngoài những tác động xã hội tích cực, báo chí cũng là nguyên nhân của không ít hệ quả xã hội phức tạp, không dễ xóa bỏ, nhất là những ảnh hưởng tiêu cực về tâm lý xã hội, những băn khoăn, lo lắng, thậm chí sụt giảm niềm tin của người dân về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trước tình hình tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế, không thể phủ nhận rằng tình trạng tham nhũng, lãng phí khá phổ biến ở các cấp, các ngành, một bộ phận cán bộ đảng viên sa sút, suy thoái đạo đức. Tuy nhiên, những thành tựu kinh tế và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội của 20 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đại đa số cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên vẫn là những công dân tích cực, những cán bộ gương mẫu, lao động sáng tạo và đầy trách nhiệm, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Vấn đề là báo chí đã đưa ra cho xã hội một mô hình thông tin với gam màu xám không phản ánh đúng tình hình thực chất của xã hội. Những thông tin tích cực, những thành tựu to lớn, những nhân tố mới đã không được phản ánh đúng với hàm lượng thực tế.

Hệ quả xã hội thứ hai là những thông tin sai, thái độ thiếu trách nhiệm của một số cơ quan báo chí đã làm tổn thương nặng nề đối với cá nhân một số người dân, phá hoại uy tín, thậm chí làm cho một số doanh nghiệp đổ vỡ.

Hệ quả thứ ba là những di hại về văn hóa, xã hội đối với người dân, nhất là đối với thanh niên, thiếu niên và trẻ nhỏ. Đó là kết quả sự tác động từ ngày này qua ngày khác kiểu mưa dầm thấm lâu của những thông tin báo chí có nội dung thiếu tính giáo dục như bạo lực, kích dục, xa lạ với truyền thống văn hóa dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà các quốc gia như Pháp, I-ta-li-a, Hàn Quốc đang hạn chế tỷ lệ phim ảnh nước ngoài trên các kênh truyền hình (kể cả truyền hình tư nhân) không vượt quá 30% - 40%. Trên nhiều trang báo in hay các chương trình phát thanh, truyền hình, ngôn ngữ tiếng Việt đang bị xúc phạm, làm cho xấu và nghèo đi bởi những từ ngữ và cách diễn đạt pha tạp tiếng nước ngoài v.v..

4 - Hội nhập và mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế

Trước hết, chính sách đối ngoại cởi mở, hội nhập quốc tế theo phương châm "làm bạn với tất cả" không chỉ mang lại cơ hội cho việc mở mang các quan hệ kinh tế, chính trị, mà còn tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế của hệ thống báo chí. Mặt khác, công nghệ thông tin và mạng In-tơ-nét đã mang đến cho báo chí Việt Nam phương tiện tuyệt vời để mở ra các hình thức quan hệ, hội nhập với hệ thống báo chí toàn cầu, trực tiếp tham dự vào quá trình toàn cầu hóa truyền thông. Bản thân việc hiện diện ngày càng nhiều các đại diện của những cơ quan thông tấn báo chí nước ngoài và hoạt động tác nghiệp của họ cũng có ý nghĩa như chất xúc tác thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của báo chí Việt Nam.

Việc mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế của báo chí thể hiện trước hết ở sự nhộn nhịp trong trao đổi thông tin và các sản phẩm báo chí truyền thông. Hoạt động này nổi bật nhất ở khu vực truyền hình và truyền hình cáp với việc mua và sử dụng các chương trình phim, truyền hình của nước ngoài. Gần đây, một số công ty truyền thông nước ngoài đã thiết lập các cơ quan đại diện có nhiệm vụ quảng bá và tiêu thụ các sản phẩm truyền thông tại thị trường Việt Nam. Hoạt động này càng có điều kiện mở rộng, bởi vì hiện nay ở Việt Nam không có những điều luật quy định về tỷ lệ thời lượng các chương trình truyền hình nước ngoài sử dụng ở các đài truyền hình trong nước. Mặt khác, tình hình sản xuất các chương trình truyền hình trong nước cũng còn ở mức độ quá khiêm tốn, chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu xã hội.

Thể hiện thứ hai là việc tăng cường trao đổi và giao lưu quốc tế của các nhà báo dưới nhiều hình thức như: gửi nhà báo đi công tác nước ngoài nhằm đưa tin về những sự kiện lớn; trao đổi với nước ngoài các đoàn nhà báo đi tham quan, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm nghề nghiệp; trao đổi các sản phẩm định kỳ, các thông tin, tư liệu...

Không thể bỏ qua việc báo chí mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhà báo. Ngay từ những năm 1992 - 1993, Hội Nhà báo Việt Nam đã hợp tác với Trường đại học báo chí Lin dưới sự tài trợ của Bộ Ngoại giao Pháp để tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí ngắn hạn. Từ năm 1997, một dự án lớn có tên "Đào tạo nâng cao báo chí Việt Nam" do Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì với sự tài trợ của Tổ chức SIDA Thụy Điển đã được triển khai thực hiện. Trong khuôn khổ những dự án này và phần truyền thông của một số dự án kinh tế - xã hội khác, mỗi năm đều có một số nhà báo được cử đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài. Hàng trăm khóa học ngắn hạn có giảng viên nước ngoài đã được tổ chức, tạo ra cơ hội cho hàng ngàn nhà báo Việt Nam được tiếp cận với những kinh nghiệm, phương pháp hoạt động nghề nghiệp báo chí ở những quốc gia có nền báo chí phát triển.

5 - Khuynh hướng tự chủ tài chính và sự hình thành nền kinh tế báo chí

Về khía cạnh kinh tế, có thể nói những chuyển động trong khu vực báo chí diễn ra chậm hơn nhiều so với các khu vực kinh doanh, sản xuất của xã hội. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi quan hệ thị trường đã được khẳng định rõ ràng và trở thành đòi hỏi trong quản lý, phát triển của các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế, thì hầu như các cơ quan báo chí còn quá lạ lẫm với vấn đề tự chủ tài chính. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện nay đã có hàng trăm cơ quan báo chí đã hoàn toàn tự chủ về tài chính, tự đảm bảo được nguồn lực kinh tế - kỹ thuật cho các hoạt động nghiệp vụ cũng như khả năng mở rộng quy mô sản phẩm

Nhìn một cách tổng thể, có thể thấy trong xã hội đang hình thành một nền kinh tế báo chí. Hai chỗ dựa quyết định cho nền kinh tế báo chí là sản phẩm hàng hóa báo chí truyền thông và dịch vụ quảng cáo. Xã hội càng phát triển thì yêu cầu thông tin báo chí càng tăng lên, do đó nhu cầu về sản phẩm hàng hóa báo chí cũng tăng lên. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh dẫn đến nhu cầu ngày càng lớn về quảng cáo nhằm đưa hàng hóa, dịch vụ đến người tiêu dùng. Như vậy, nền kinh tế báo chí Việt Nam đang có cơ hội thuận lợi cho sự phát triển. Theo số liệu không chính thức, cơ quan báo chí có nguồn thu vào loại lớn nhất hiện nay đã đạt đến xấp xỉ 1.000 tỉ đồng/năm.

Sự phát triển kinh tế báo chí dẫn đến sự tác động có tính hai mặt vào đời sống báo chí truyền thông. Mặt thứ nhất, nó mang lại nguồn lực tài chính quan trọng, đảm bảo cho sự tiếp tục phát triển, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới thiết bị kỹ thuật công nghệ, mở mang thêm các nguồn thông tin, tài liệu, cũng như công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm báo. Nói tóm lại, kinh tế báo chí trở thành động lực phát triển cho báo chí.

Xét từ mặt thứ hai của vấn đề, sự phát triển kinh tế báo chí dẫn tới hiện tượng thương mại hóa báo chí, hay là sự xuất hiện những sản phẩm báo chí thuần túy hàng hóa, chỉ quan tâm thu lợi nhuận, không quan tâm đến chức năng thông tin tuyên truyền hoặc coi chức năng thông tin, tuyên truyền như vỏ bọc cho hoạt động kinh tế.

Một vấn đề không thể bỏ qua là vấn đề hình thành các tập đoàn báo chí (hay tập đoàn truyền thông). Ở các nước tư bản chủ nghĩa, các tập đoàn báo chí hình thành trên cơ sở tích tụ tư bản, cá lớn nuốt cá bé hay các công ty truyền thông tự nguyện liên kết lại bằng hình thức mua bán hoặc hợp nhất với nhau nhằm tăng nguồn lực, tạo ra sức mạnh đủ khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Cũng có thể, các quá trình trên diễn ra giữa những tập đoàn kinh tế công nghiệp, thương mại, dịch vụ với cơ quan hoặc các công ty báo chí nhằm mở rộng lĩnh vực kinh doanh, tạo ra lợi thế xã hội trong phát triển. Vì thế, thực chất của việc hình thành các tập đoàn báo chí là một quá trình thuần túy kinh tế, nhằm mục đích kinh tế. Những yếu tố liên quan đến khuynh hướng, tác động chính trị của chúng, thực ra cũng là nhằm tìm đến lợi nhuận và bị lợi nhuận chi phối.

Tại một vài quốc gia khác (như Trung Quốc, Ma-lai-xi-a...), đảng chính trị cầm quyền và nhà nước chủ động tạo ra các nguồn lực và điều kiện kinh tế - xã hội - kỹ thuật - công nghệ để xây dựng các tập đoàn báo chí nhằm mục đích tạo ra sức mạnh truyền thông chi phối dư luận xã hội, phục vụ cho các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên khi đã trưởng thành, các tập đoàn báo chí đó không chỉ trở thành thế lực truyền thông chính trị, mà còn trở thành thế lực kinh tế và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các quy luật kinh tế trong quá trình tồn tại, phát triển.

Thực tế và những kinh nghiệm trên buộc chúng ta phải cân nhắc kỹ khi đặt ra và và bắt tay vào việc xây dựng các tập đoàn báo chí của Việt Nam. Bởi vì, một khi các tập đoàn báo chí ra đời, phát triển theo cơ chế tự chủ tài chính, cũng có nghĩa là chúng không thể tránh khỏi sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường như các doanh nghiệp kinh tế khác. Vấn đề đặt ra phải có cơ chế như thế nào để chi phối, định hướng chính trị đối với những thế lực kinh tế, thế lực truyền thông chính trị ấy phục vụ cho mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội.

6 - Những vấn đề hạn chế về quản lý báo chí

Trong thời kỳ 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, hai văn bản có ý nghĩa như quan điểm, định hướng cơ bản của Đảng trong việc lãnh đạo, quản lý và phát triển báo chí là Chỉ thị 08 của Bộ Chính trị khóa VII, năm 1992 và Chỉ thị 22, năm 1997 của Bộ Chính trị khóa VIII. Những nguyên tắc quan trọng nhất được khẳng định trong hai văn bản này là vai trò lãnh đạo của Đảng và phát triển phải đi đôi, gắn liền với quản lý báo chí.

Có thể nói, hoạt động quản lý báo chí đã và đang được hoàn thiện cả về hành lang pháp lý, tổ chức, bộ máy và cơ chế điều hành. Đó là điều kiện quan trọng, không thể thiếu, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của hệ thống báo chí đất nước. Tuy nhiên, cũng có thể nhận thấy một số vấn đề còn bất cập hoặc chưa đáp ứng kịp yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.

Thứ nhất, có thể nhận thấy rằng, trong xã hội và nhất là trong hệ thống chính trị chưa có sự nhận thức thật sự thống nhất về vai trò, chức năng xã hội của hệ thống báo chí nói riêng và hệ thống truyền thông đại chúng nói chung, sự cần thiết và yêu cầu, mức độ quản lý hệ thống đó nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển xã hội. Tình hình này trở nên phức tạp hơn khi Đảng ta thực hiện chính sách đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội ngày càng phát triển theo hướng cải thiện, mở rộng dân chủ, giao lưu quốc tế ngày càng tăng cường, hội nhập toàn diện. Mặt khác, những yếu tố từ bên ngoài tác động ngày càng nhiều vào xã hội nước ta, trong đó có những sức ép, sự can thiệp, thúc đẩy về tự do báo chí, sự kích động về dân chủ, nhân quyền... Sự không thống nhất trong nhận thức về vấn đề này ảnh hưởng đến các khâu trong quá trình quản lý báo chí, từ hoạch định chính sách, chế độ, việc tổ chức hệ thống, hình thành cơ chế làm việc, đến việc thực thi các biện pháp, vận hành các loại công cụ quản lý.

Thứ hai, mức độ cụ thể hóa trong hệ thống luật định về báo chí chưa đủ để giải quyết nhiều tình huống đặt ra trong thực tế hoạt động báo chí, nhất là đối với những vấn đề như: văn hóa, đạo đức, quan hệ xã hội... Còn thiếu những chế tài, giải pháp để quản lý một số yếu tố của hệ thống báo chí, nhất là quản lý về trách nhiệm của các cơ quan chủ quản, trách nhiệm, nghĩa vụ xã hội của những người làm báo. Một số chế độ không còn thích ứng với thực tế nhưng chậm được thay đổi; một số chế tài không đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn những hành vi, sự vụ vi phạm pháp luật, chế định của Nhà nước, đường lối, chủ trương của Đảng. Ví dụ, chưa có những điều luật bảo vệ công dân trong quá trình điều tra và xét xử các vụ án (khi họ chưa phải là tội phạm và chưa bị kết án), không có những chế định đủ mạnh để bảo vệ nhân phẩm công dân trong thông tin báo chí khi họ liên quan đến một số hành vi có tính đạo đức hay tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy...

Thứ ba, bộ máy quản lý chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động; quy mô và các nguồn lực chưa tương xứng với khối lượng và tính chất công việc. Vấn đề rõ nhất là chưa phân định rõ trách nhiệm, chức năng giữa cơ quan chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng với cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, cũng như chưa có sự phân định chức năng và xây dựng tổ chức bộ máy hợp lý giữa cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm xét xử những vi phạm của báo chí theo luật định. Trách nhiệm của cơ quan chủ quản báo chí cũng không bị ràng buộc chặt chẽ về pháp lý với cơ quan báo chí.

Thứ tư, chưa giáo dục đầy đủ và hiệu quả cho những người làm báo về luật pháp, đạo đức và trách nhiệm công dân của nhà báo. Hệ thống đào tạo không được quan tâm đầy đủ, bị chi phối quá nặng nề bởi một hệ thống chế định, chế độ không hợp lý và nhiều khi vô lý. Chưa có cơ chế, chế độ và các điều kiện cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí các cấp.

*

* *

Những phác thảo về vấn đề phát triển của báo chí Việt Nam sau 20 năm đổi mới cho thấy khuynh hướng tiến bộ, hiện đại và dân chủ đã quán xuyến và chi phối tất cả các bình diện của nền báo chí Việt Nam. Những đặc điểm phát triển ấy là lô-gíc tất yếu của một chính sách báo chí nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do báo chí ngôn luận một cách rộng rãi nhất, tích cực nhất cho nhân dân lao động, phát huy một cách có hiệu quả nhất vai trò và sức mạnh của báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Những đặc điểm phát triển của báo chí ấy cũng là hệ quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước, không tách rời những ảnh hưởng to lớn của quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển khoa học, công nghệ của thời đại, nhất là công nghệ thông tin và mạng In-tơ-nét.

Sẽ là phiến diện nếu không chỉ ra rằng, trong tiến trình phát triển của báo chí Việt Nam cũng đã xuất hiện và đang tồn tại một số vấn đề bất cập hoặc chậm xử lý làm hạn chế vai trò động lực phát triển của báo chí. Việc đặt ra và giải quyết những vấn đề đó, trước hết là những vấn đề liên quan đến hành lang pháp lý, cơ chế quản lý, giáo dục đạo đức nghề nghiệp chuyên nghiệp v.v.. là yêu cầu, điều kiện không thể thiếu cho việc phát huy những tính chất ưu việt, tăng cường hội nhập quốc tế, xây dựng nền báo chí Việt Nam hiện đại, ngang tầm với những yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

(1) Nguồn: Asia Times - website, ngày 28-11-2006