Nhìn lại việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Kết quả xây dựng, ban hành chính sách và luật pháp phát triển văn hóa
Một là, xây dựng, ban hành luật pháp, quy chế và quy ước.
- Đã xây dựng, ban hành các luật, pháp lệnh, các vǎn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động trên lĩnh vực vǎn hóa. Xây dựng, bổ sung những luật đã ban hành cho phù hợp với tình hình mới như Luật Di sản Vǎn hóa, Luật Quảng cáo, Luật Tiếp cận thông tin, ... Xây dựng quy chế về giải thưởng, tặng thưởng trong lĩnh vực vǎn hóa - vǎn nghệ, báo chí; quy chế kỷ niệm các sự kiện lịch sử và danh nhân (trong nước và thế giới), đặt tên đường phố, lập nhà bảo tàng, xây dựng tượng đài,...
- Bổ sung, hoàn thiện hoặc xây dựng mới các quy chế, quy định về lễ hội, việc tang, việc cưới, việc cúng bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã, việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng,...
- Khuyến khích nhân dân các thôn, ấp, cụm dân cư, khu tập thể, doanh nghiệp, cơ quan xây dựng các quy ước về nếp sống vǎn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường thiên nhiên, cảnh quan sạch đẹp.
Hai là, xây dựng, ban hành các chính sách về hoạt động văn hóa.
- Chính sách kinh tế trong vǎn hóa nhằm gắn vǎn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm nǎng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển vǎn hóa, đồng thời bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động vǎn hóa, giữ gìn bản sắc vǎn hóa dân tộc. Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ (hoạt động thể thao, dịch vụ vǎn hóa...), tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự nghiệp của các đơn vị vǎn hóa - nghệ thuật. Cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, báo chí, xuất bản; thuế đối với báo chí; trợ giá cho một số báo chí, vǎn hóa phẩm đưa ra nước ngoài nhằm mục đích tuyên truyền đối ngoại và sách báo đưa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Quy định cụ thể chế độ cho các doanh nghiệp đặc thù của ngành vǎn hóa thông tin (hãng phim, rạp chiếu bóng, hiệu sách, khu vui chơi giải trí, nhà xuất bản, trung tâm triển lãm, tu bổ di tích...) được hưởng mức thuế ưu đãi trong hoạt động kinh doanh (thuế đất, thuế vốn khấu hao cơ bản...). Cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong nước và nước ngoài, thực hiện một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt động vǎn hóa theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ và tham gia tổ chức một số hoạt động vǎn hóa có nội dung lành mạnh, bổ ích.
- Chính sách vǎn hóa trong kinh tế bảo đảm cho vǎn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển vǎn hóa. Việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp kinh tế phải gắn với các mục tiêu, giải pháp vǎn hóa, chǎm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất kinh doanh. Xây dựng vǎn minh thương nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, vǎn hóa kinh doanh. Chú ý tính thẩm mỹ, bản sắc dân tộc và tính hiện đại của kiến trúc trong xây dựng các khu dân cư, khu công nghiệp... Trong quy hoạch xây dựng các công trình lớn phải tính đến một số thiết chế vǎn hóa cần thiết nhất như thư viện, nhà thông tin, khu giải trí, bảo đảm cảnh quan môi trường cho các di tích lịch sử, vǎn hóa và danh lam thắng cảnh. Thực hiện chính sách miễn, giảm phần chịu thuế cho các khoản đầu tư, đóng góp của các doanh nghiệp vào sự nghiệp vǎn hóa.
- Chính sách xã hội hóa hoạt động vǎn hóa nhằm động viên sức người, sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển vǎn hóa. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về vǎn hóa của Nhà nước phải làm tốt chức nǎng quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động xã hội về vǎn hóa.
- Chính sách bảo tồn, phát huy di sản vǎn hóa dân tộc hướng vào cả vǎn hóa vật thể và phi vật thể. Đã tiến hành việc kiểm kê, sưu tầm, chỉnh lý vốn vǎn hóa truyền thống (bao gồm vǎn hóa bác học và vǎn hóa dân gian) của người Việt và các dân tộc thiểu số; phiên dịch, giới thiệu kho tàng vǎn hóa Hán Nôm. Bảo tồn các di tích lịch sử, vǎn hóa và các danh lam thắng cảnh, các làng nghề, các nghề truyền thống... Trọng đãi những nghệ nhân bậc thầy trong các ngành, nghề truyền thống.
- Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động vǎn hóa, tǎng nguồn đầu tư thích đáng cho sáng tạo vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật. Chú trọng đầu tư hỗ trợ cho những tác giả có uy tín cao, những tài nǎng trẻ, đầu tư cho lực lượng chuyên nghiệp và cả cho phong trào quần chúng. Có chính sách chǎm sóc đặc biệt đối với các vǎn nghệ sĩ cao tuổi tiêu biểu, các mầm non nghệ thuật xuất sắc. Tiến hành sửa đổi chế độ nhuận bút phù hợp với tình hình mới; có chính sách khuyến khích đối với lao động nghệ thuật và báo chí. Thành lập quỹ vǎn hóa quốc gia và quỹ sáng tác của các hội vǎn học, nghệ thuật, tạo thêm nguồn hỗ trợ tài chính cho xây dựng các tác phẩm; khuyến khích các vǎn nghệ sĩ, nhà báo gắn bó với cơ sở, với thực tiễn lao động sản xuất. Thực hiện tốt Pháp lệnh Quy định giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước để tặng các nghệ sĩ, nhà giáo, thầy thuốc.
- Xây dựng và ban hành chính sách đặc thù hợp lý cho những loại đối tượng xã hội cần được ưu đãi tham gia và hưởng thụ vǎn hóa như thương binh, bệnh binh, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, trẻ em, những người già không nơi nương tựa, những người thuộc các dân tộc thiểu số, những người tàn tật...
- Ban hành các chính sách cụ thể về hợp tác quốc tế trong quan hệ với các tổ chức quốc tế và các quốc gia ở những khu vực, những nhóm nước cụ thể. Thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ về vǎn hóa (Nhà nước, các tổ chức phi chính phủ, cá nhân) nhằm tiếp thu được nhiều tinh hoa, kinh nghiệm của nước ngoài, ngǎn ngừa những tác động tiêu cực. Mở rộng, khuyến khích xuất khẩu sách, báo, vǎn hóa phẩm. Nâng công suất và thời lượng phát thanh, truyền hình ra nước ngoài. Tǎng cường trao đổi các đoàn nghệ thuật, điện ảnh, các cuộc triển lãm, các cuộc thi đấu thể thao. Hình thành cơ chế phối hợp, chỉ đạo tập trung các cơ quan và lực lượng làm công tác đối ngoại trên lĩnh vực vǎn hóa - thông tin.
Triển khai thực hiện quan điểm, chính sách, pháp luật phát triển văn hóa
Một là, mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và cuộc vận động "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống vǎn hoá".
- Bằng nhiều hình thức phong phú, tổ chức tuyên truyền, giáo dục làm chuyển biến nhận thức trong toàn xã hội, trước hết trong các cấp ủy đảng, đảng viên, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ các đoàn thể quần chúng về tầm quan trọng, sự cần thiết cấp bách của sự nghiệp xây dựng, phát triển vǎn hóa, về trách nhiệm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển vǎn hóa trong thời kỳ mới.
- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với phong trào thi đua yêu nước và giáo dục về chủ nghĩa xã hội, về nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước thoát nghèo nàn lạc hậu; làm cho mọi người thấm nhuần truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
- Mở cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống vǎn hóa", huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội tích cực tham gia phong trào. Cuộc vận động này gồm các phong trào hiện có như: Người tốt việc tốt, Uống nước nhớ nguồn, Đền ơn đáp nghĩa, Xóa đói giảm nghèo, Xây dựng gia đình vǎn hóa, làng, xã, phường vǎn hóa, Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở các khu dân cư... và toàn bộ các phong trào ấy đều hướng vào cuộc thi đua yêu nước; tất cả vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, vǎn minh”.
Hai là, tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
- Tǎng mức đầu tư cho vǎn hóa từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong ngân sách nhà nước. Tỷ trọng chi ngân sách cho vǎn hóa tǎng tương ứng nhịp độ tǎng trưởng kinh tế. Khuyến khích các địa phương tǎng thêm nguồn đầu tư cho vǎn hóa. Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển vǎn hóa.
- Thực hiện các chương trình có mục tiêu về vǎn hóa nhằm đầu tư có trọng điểm, giải quyết các vấn đề có tính cấp bách.
Ba là, củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan lãnh đạo, quản lý, tham mưu, các đoàn thể, các tổ chức nghề nghiệp của hoạt động vǎn hóa từ Trung ương đến cơ sở, nhằm bảo đảm hoạt động có hiệu quả.
- Điều chỉnh, xác định rõ cơ cấu, chức nǎng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các ban của Đảng và các tổ chức đảng trong Bộ Vǎn hóa Thể thao và Du lịch, các hội vǎn học nghệ thuật (các ban cán sự đảng đoàn). Xây dựng quy chế về mối quan hệ làm việc giữa các tổ chức này, bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng.
- Nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý vǎn hóa các cấp. Sử dụng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có. Xây dựng quy hoạch và thực hiện chương trình đào tạo lớp cán bộ mới (cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, chuyên gia) đủ phẩm chất và nǎng lực đảm đương công việc. Củng cố, kiện toàn hệ thống các khoa, trường đào tạo cán bộ vǎn hóa, nghệ thuật, thông tin, báo chí, các viện nghiên cứu cả về tổ chức, đội ngũ giảng viên, chương trình, giáo trình.
- Xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ vǎn hóa.
Bốn là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
- Nhận thức đúng về vai trò đặc biệt quan trọng của vǎn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, xây dựng xã hội mới.
- Khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu tranh trên lĩnh vực vǎn hóa.
- Thường xuyên chǎm lo việc nâng cao nhận thức, hiểu biết về lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tình hình đất nước cho đội ngũ trí thức vǎn nghệ sĩ, cán bộ vǎn hóa; làm tốt công tác kết nạp đảng trong bộ phận trí thức, vǎn nghệ sĩ ưu tú.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm cho vǎn hóa, vǎn học nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm thực hiện quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ.
- Phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng, các tổ chức sáng tạo vǎn hóa, vǎn nghệ trong việc vận động, tổ chức quần chúng, giới trí thức thực hiện nhiệm vụ vǎn hóa.
- Thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng - vǎn hóa; lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sắc bén, giúp các cơ quan nhà nước thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng. Hỗ trợ giải quyết kịp thời những khó khǎn, vướng mắc đối với ngành vǎn hóa trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.
- Quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức và lối sống vǎn hóa cho thế hệ trẻ; hướng chính sách, pháp luật vào trọng dụng người tài.
- Thực hiện công tác kiểm tra của Đảng trong việc xem xét tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Những hạn chế và phương hướng
- Việc xây dựng, ban hành luật pháp trong một số lĩnh vực chưa tương thích với việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, ví dụ Luật Tiếp cận thông tin, quy chế liên quan đến các trang mạng internet, ...
- Chưa có các công trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn triển khai thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế để có căn cứ lý luận và thực tiễn điều chỉnh chính sách trong lĩnh vực này.
- Công tác nghiên cứu về các xu hướng phát triển văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay trong điều kiện toàn cầu hóa, nhất là các dạng thức văn hóa đại chúng, các dạng thức văn hóa dưới sự tác động của internet, ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài đến văn hóa Việt Nam;... chưa được quan tâm, triển khai thực hiện, dẫn đến những lúng túng nhất định trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa và hoạt động văn hóa.
Những hạn chế nêu trên cần được xem xét để có phương hướng thực hiện cụ thể, từ khâu xây dựng các văn bản luật pháp đến việc lồng ghép triển khai thực hiện các phong trào văn hóa trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”;... Phương hướng hiệu quả hơn cả là thúc đẩy việc lồng ghép chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế hiện nay./.
Cuộc chiến chưa có hồi kết ở I-rắc  (27/03/2013)
Sự trùng hợp ngẫu nhiên hay hữu ý?  (27/03/2013)
Huy động trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng Hiến pháp  (26/03/2013)
Huy động trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng Hiến pháp  (26/03/2013)
Cái gạch ngang  (26/03/2013)
Phiên họp thứ hai Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng  (26/03/2013)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên