Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, lãng phí hiện nay không thể thiếu vai trò của nhân dân. Vì lẽ đó, mà trong các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương mang tính chiến lược là phải dựa vào nhân dân để chống tham nhũng, tiêu cực. Chỉ có dựa vào sức mạnh của nhân dân mới xây dựng được chính quyền trong sạch, giữ vững kỷ cương, an ninh, quốc phòng, tạo động lực to lớn phát triển kinh tế - xã hội.

Phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí là một trong các biện pháp hiệu quả, bởi vì nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước và tham nhũng nảy sinh, bắt nguồn từ sự lạm dụng, tha hóa quyền lực nhà nước. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội...; sử dụng sức mạnh tổng hợp của tổ chức Đảng, bộ máy nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng”[1].

Trong hơn 77 năm qua, kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta mà đứng đầu là Hồ Chí Minh luôn coi việc của dân chính là việc của Đảng, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Đây chính là nguyên lý và chân lý của lịch sử vì như Bác Hồ kính yêu đã nói, trong bầu trời này không gì quý bằng nhân dân, vì “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong[2]. Trong 21 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã ban hành một loạt các nghị quyết về vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Trong thời gian qua chúng ta đã tiến hành một số biện pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả sau:

Thứ nhất, thực hiện các quy chế, quy định trong sinh hoạt đảng, nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình. Hình thức này quy định chặt chẽ chế độ sinh hoạt cho từng đảng viên. Trong các cuộc sinh hoạt đảng, mọi đảng viên trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, quy định của Đảng, có quyền thể hiện mọi chính kiến của mình trước Đảng, thực sự dân chủ trong đánh giá, đề xuất, kiến nghị chủ động, sáng tạo. Nếu được đa số tán thành, các ý kiến sẽ trở thành nghị quyết, kết luận để thi hành; còn nếu là ý kiến thiểu số thì có quyền bảo lưu, đề xuất lên cấp trên để tiếp tục nghiên cứu, quyết định. Tuy nhiên, trên thực tế do những nguyên nhân khác nhau mà sinh hoạt đảng ở một số nơi trở thành hình thức, qua loa, chiếu lệ, thiếu nội dung cụ thể, “dĩ hòa vi quý”. Đa số các bản kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập trung nói về thành tích, ưu điểm; tình trạng thiếu gương mẫu, nể nang, né tránh vẫn còn, làm hạn chế vai trò của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Thứ hai, tổ chức đại hội công nhân viên chức hằng năm, thành lập Ban Thanh tra nhân dân. Theo báo cáo thống kê, hiện có khoảng 85- 90% doanh nghiệp nhà nước và trên 90% cơ quan hành chính sự nghiệp đã tổ chức hội nghị công nhân viên chức hằng năm, tạo cơ hội để cán bộ, nhân viên trực tiếp góp ý, phê bình, xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh, đoàn kết. Tuy nhiên, đại hội công nhân viên chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân nhiều khi vẫn còn có lúc, có nơi phụ thuộc vào ý chí của lãnh đạo, làm những việc có lợi cho lãnh đạo, hạn chế cơ hội để cán bộ nêu ra khuyết điểm thiếu sót, song dù sao đây vẫn là một hình thức nhằm cảnh báo, răn đe, phòng ngừa làm hạn chế các hành vi tham nhũng có thể xảy ra.

Thứ ba, xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên cho từng loại hình cơ sở, thể chế hóa cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, để nhân dân tham gia đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Cho đến nay, Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã thực hiện được hơn 8 năm, khâu quan trọng và cấp bách hiện nay là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Chỉ có thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân mới khơi dậy được tính tích cực, chủ động, tự giác của nhân dân tham gia thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhờ vậy mà chủ trương, chính sách mới trở thành hiện thực. Và chỉ khi công việc của nhà nước, của xã hội trở thành công việc của mọi người và mọi người tham gia thực hiện thì chế độ chính trị mới thực sự có sức mạnh. Điều đó lại diễn ra thường xuyên, hàng ngày ở chính cơ sở. Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là xây dựng nền tảng của chế độ chính trị theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, tổ chức tiếp dân để tiếp thu ý kiến của dân, kịp thời ngăn chặn và khắc phục các hiện tượng tham nhũng, lãng phí. Theo báo cáo, hiện có 100% các cấp huyện, thị, thành phố các sở, ban ngành, các trụ sở cơ quan trung ương đảng, chính quyền đều có nơi tiếp dân để nghe các ý kiến, khiếu nại của dân. Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, là một bước thể chế hóa quan điểm của Đảng ta về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đời sống trong thời kỳ đổi mới cùng với việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.

Kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền công dân thông qua việc giải quyết khiếu nại có những ưu điểm nhất định như: thủ tục đơn giản, nhanh gọn và hiệu quả, quyền công dân được khôi phục nhanh chóng, sự bất hợp lý hay bất hợp pháp trong quyết định và hành vi hành chính đều có thể được xem xét. Việc tiếp dân đã góp phần làm cho tình hình khiếu kiện có chiều hướng giảm; hàng nghìn tỉ đồng của Nhà nước được thu hồi, kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính hơn nghìn cán bộ và truy tố hàng trăm người. Tuy nhiên, việc tiếp dân có nơi có lúc còn chưa thật sự quan tâm, mang tính hình thức, hiệu quả thấp; cơ sở vật chất kỹ thuật tại trụ sở tiếp dân còn lạc hậu. Nếu tập thể lãnh đạo có vấn đề thì đơn thư dễ bị chìm trong im lặng đáng sợ, người khiếu kiện còn bị trù dập, trả thù; ví dụ như các vụ án Năm Cam, vụ đất đai ở Đồ Sơn, Phú Quốc, vụ Hai Chi ở Bình Thuận... trước khi được đưa ra ánh sáng.

Thứ năm, xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước để người dân tự giác nhận trách nhiệm tham gia xây dựng cộng đồng trong sạch. Đây là một trong những hình thức góp phần phát huy vai trò của nhân dân dựa trên tinh thần tự giác, trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, tạo chuyển biến tích cực trong đạo đức, tác phong và lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ cơ sở, gián tiếp ngăn chặn tham nhũng, lãng phí.

Thứ sáu, tổ chức các hòm thư góp ý, đường dây điện thoại nóng để tiếp nhận các phản ánh và xử lý đơn thư tố cáo về tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên.Thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, ở một số cơ quan, đơn vị, bệnh viện ... áp dụng biện pháp đặt hòm thư tiếp nhận đơn thư và đường dây nóng tố cáo tiêu cực của cán bộ, công chức gây phiền hà cho người dân. Từ các hòm thư và đường dây điện thoại nóng đó, đã thu thập được nhiều thông tin có giá trị, kịp thời ngăn chặn các hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu, có biện pháp xử lý kịp thời. Những thông tin nếu đúng sự thật sẽ được xử lý theo luật định, nếu không đúng cũng để rút kinh nghiệm, bảo vệ uy tín cán bộ, đảng viên, có biện pháp phòng ngừa và giữ lòng tin trong nhân dân.

Thứ bảy, phát huy vai trò của báo chí và các phương tiện truyền thông để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tham gia chống tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế, hầu hết các vụ tiêu cực lớn, dù thủ đoạn hành vi tham nhũng có tinh vi, phức tạp đến đâu, cũng khó qua được tai mắt của nhân dân, trong đó có báo chí. Báo chí được coi là công cụ chính trị sắc bén bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, đồng thời với chức năng, tôn chỉ, mục đích được giao, báo chí luôn đi đấu trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng. Sức lan toả của báo chí rất nhanh và lớn, nhất là với trình độ công nghệ thông tin toàn cầu được kết nối như hiện nay, báo chí không chỉ tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước mà còn phát hiện, điều tra các hành vi tham nhũng, định hướng dư luận và tạo những chứng cứ ban đầu để các cơ quan chức năng vào cuộc điều tra, xử lý.

Để phát huy vai trò của nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đạt hiệu quả cao, cần tập trung một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tăng cường vai trò giám sát của nhân dân là biện pháp có hiệu quả phòng chống tham nhũng, lãng phí, giúp Đảng thanh loại những kẻ cơ hội, thoái hoá, biến chất ra khỏi bộ máy Đảng, Nhà nước. Các cấp uỷ, chính quyền cần công khai hoá các chương trình, kế hoạch, lịch làm việc, cũng như công tác tuyển chọn, đề bạt, sử dụng cán bộ; quyền và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên để nhân dân được rõ. Duy trì và đổi mới chế độ tự phê bình và phê bình, “từ trên xuống dưới, từ trong Đảng đến ngoài đảng, từ đảng viên tới quần chúng”.

Hai là, hoàn thiện các quy định nhằm xóa bỏ mọi rào chắn, lực cản, khơi dậy tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thường xuyên rà soát bổ sung, sửa đổi, ban hành mới những quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước bảo đảm cơ sở pháp lý và điều kiện cần thiết để nhân dân giám sát, kiểm tra và đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả. Hoàn thiện các quy chế về sự công khai, minh bạch để nhân dân có điều kiện giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên; cải cách thủ tục hành chính nhanh gọn hiệu quả. Ngày 27- 10- 2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 157/2007/NĐ-CP quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ, sẽ bị xử lý trách nhiệm nếu để cấp phó, cán bộ, viên chức thuộc quyền quản lý tham nhũng, lãng phí, hoặc để tình trạng đơn, thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài, khi xử lý không nghiêm minh hoặc bao che cho hành vi vi phạm pháp luật của cấp dưới.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, biện pháp thanh tra, kiểm tra theo tinh thần dựa vào nhân dân. Quy định rõ và thông báo rộng rãi địa chỉ thống nhất tiếp nhận ý kiến, đơn thư của nhân dân. Đó là đầu mối giao dịch với nhân dân của các cơ quan chức năng tiếp thu ý kiến của nhân dân, công khai các kết quả xử lý. Làm được như vậy sẽ tránh được tình trạng nhiều người dân không biết gửi các ý kiến của mình đến cơ quan nào, cấp nào thì đúng, nên nhiều khi gửi sai địa chỉ, vượt cấp, vòng vo, trùng lắp. Quy định trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị về tính gương mẫu trong thực hiện báo cáo định kỳ công việc và tự phê bình trước cán bộ, đảng viên và nhận sự đóng góp ý kiến của tập thể cán bộ.

Bốn là, huy động, tiếp nhận, xử lý kịp thời các nguồn thông tin nhân dân cung cấp về tham nhũng tiêu cực. Lãnh đạo các cấp ủy, chính quyền bố trí lịch tiếp dân và tổ chức việc giải quyết đơn thư tố cáo thuộc thẩm quyền của mình. Có kế hoạch, phương pháp tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, gặp gỡ trực tiếp hoặc trao đổi qua thư từ, trọng dân, lắng nghe dân, hiểu và chia sẻ với dân, gợi mở để dân nói thẳng, nói thật. Cán bộ tiếp dân phải có đủ năng lực, phẩm chất, quyền hạn, đúng quy định của pháp luật trong tiếp nhận, xử lý thông tin. Đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân phải được xem xét, xử lý nghiêm túc, triệt để, công bằng. Coi trọng và xem xét tất cả các thông tin từ dư luận và nhân dân phản ánh, làm rõ và giải thích công khai nhất là đối với cán bộ chủ chốt ở các cấp và những người trước khi được bầu cử. Thông tin dư luận có đúng, có sai là bình thường, quan tâm đến dư luận, công khai trước dân cũng là giải pháp bảo vệ uy tín của cán bộ, đảng viên trong những trường hợp thông tin chưa chính xác. Tăng cường phát hiện, nhân rộng điển hình và bảo vệ những người hăng hái, dũng cảm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tôn vinh, khen thưởng về tinh thần và vật chất cho những người có công trong chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; đồng thời có chế tài và xử lý nghiêm minh những người lợi dụng chống tham nhũng, tiêu cực nhằm gây rối nội bộ hoặc vì mục đích cá nhân mà bịa đặt với dụng ý xấu và can thiệp bao che cho kẻ có hành vi tham nhũng, tiêu cực.

Năm là, xây dựng văn hoá chống tham nhũng trong toàn hệ thống chính trị và toàn dân. Tuyên truyền sâu rộng trong Đảng và toàn xã hội đẻ mọi cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở có chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức tư tưởng, có thái độ khinh ghét tham nhũng, không chấp nhận tham nhũng, từng bước hình thành văn hoá tham nhũng cùng với quá trình xây dựng văn hoá Đảng, văn hoá công sở - công chức, văn hoá doanh nghiệp - doanh nhân thời hội nhập. Coi trọng giáo dục từ trong gia đình, nhà trường đến ngoài xã hội về nhân cách, đạo đức, lối sống, trong đó coi chống tham nhũng là một giá trị xã hội, không chấp nhận các hành vi tham nhũng. Nâng cao, giữ gìn đạo đức, lối sống trong sạch truyền thống của dân tộc nhằm ngăn ngừa, cô lập, loại bỏ kẻ tham nhũng ngay từ trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư nơi sinh sống. Coi trọng xây dựng môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh không chấp nhận tiêu cực tham nhũng là nhiệm vụ chiến lược, là cơ sở để bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và xây dựng Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
 

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 286, 287

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 212