Tỉnh Đắk Nông tăng cường thu hút, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
TCCS - Thời gian qua, tỉnh Đắk Nông triển khai nhiều biện pháp đồng bộ nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; thực hiện cải cách hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy đầu tư, sản xuất và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong thời gian tới, để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Đắk Nông “trở thành tỉnh trung bình khá vào năm 2025 và tỉnh phát triển khá vào năm 2030 của vùng Tây Nguyên”(1), tỉnh Đắk Nông tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm chiến lược, trong đó có nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
Những kết quả đạt được
Ngay từ khi thành lập, tỉnh Đắk Nông đã xác định, hoạt động cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Do xuất phát điểm thấp, các điều kiện về nguồn lực ban đầu, như hệ thống hạ tầng giao thông, cơ cấu bộ máy hành chính, nhân lực... còn hạn chế, nên quy mô các dự án đầu tư vào tỉnh trong những năm qua nhỏ, giá trị đầu tư nhiều dự án thấp. Trước thực tế đó, từ ngày thành lập đến nay, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Đắk Nông tăng cường tập trung nguồn lực, quyết liệt chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách, giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Đến nay, những hoạt động của chính quyền tỉnh Đắk Nông trong công tác cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao, thể hiện qua kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) những năm gần đây, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (nay là Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI) công bố. Theo đó, năm 2020, PCI tỉnh Đắk Nông có 5 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra (chi phí gia nhập thị trường, chi phí thời gian, chi phí không chính thức, cạnh tranh bình đẳng, thiết chế pháp lý); 4 chỉ tiêu cao hơn mức trung bình của cả nước (chi phí gia nhập thị trường, tiếp cận đất đai, tính minh bạch và cạnh tranh bình đẳng). Chỉ số tăng điểm cao nhất là chỉ số gia nhập thị trường, đạt 8,03 điểm, tăng 1,27 điểm; chỉ số cạnh tranh bình đẳng, thiết chế pháp lý, đào tạo lao động và dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp đều có mức tăng điểm sau mỗi năm; các chỉ số nghịch, chi phí thời gian và chi phí không chính thức đều cao; các chỉ số tiếp cận đất đai, tính minh bạch giảm. Đến năm 2021, Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tăng lên 8 bậc so với năm 2020, xếp vị trí 52/63 tỉnh, thành phố trong cả nước, đó là thứ hạng cao nhất trong 8 năm gần đây của tỉnh Đắk. Trong đó, có tới 7 chỉ số thành phần tăng điểm, gồm: tiếp cận đất đai (năm 2020: 6,77; năm 2021: 6,97); chi phí thời gian (năm 2020: 7,23; năm 2021: 7,57); chi phí không chính thức (năm 2020: 6,54; năm 2021: 6,90); tính năng động của chính quyền (năm 2020: 5,56; năm 2021: 6,79); chính sách hỗ trợ doanh nghiệp (năm 2020: 5,91; năm 2021: 6,19); đào tạo lao động (năm 2020: 5,53; năm 2021: 5,66); thiết chế pháp lý và an ninh, trật tự (năm 2020: 6,27; năm 2021: 7,68)(1).
Nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, môi trường đầu tư, kinh doanh tỉnh Đắk Nông được cải thiện đáng kể. Nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp lớn có uy tín và tiềm lực tài chính ngày càng quan tâm đến thị trường trong tỉnh. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có hơn 380 dự án, với tổng vốn đầu tư khoảng 74.860 tỷ đồng (trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên 7.000 tỷ đồng). Đến nay, trên địa bàn tỉnh có hơn 2.644 doanh nghiệp đang hoạt động, đã và đang có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho lao động địa phương. Riêng giai đoạn 2016 - 2020, tổng huy động vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh đạt hơn 23.000 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,02%/năm. Nhiều nhà đầu tư chiến lược thực hiện những dự án lớn, từng bước khai thác các lợi thế tự nhiên có sẵn(2).
Những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh được thể hiện qua bốn thay đổi mang tính đột phá sau:
Một là, về công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh.
Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh phê duyệt danh mục thủ tục hành chính, giảm thời gian giải quyết, hoàn thiện một số thủ tục so với các quy định hiện hành trên địa bàn tỉnh. Đến nay, tỉnh đã cắt giảm thành công thời gian thao tác, giải quyết đối với 77 thủ tục hành chính không còn phù hợp. Ngoài ra, để tiết kiệm chi phí thời gian và chi phí không chính thức cho người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4. Đến nay, dịch vụ hành chính công của tỉnh cung cấp 620 dịch vụ công trực tuyến, trong đó, có 517 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, chiếm 83,4%; 103 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, chiếm 16,6%; tỷ lệ doanh nghiệp nộp thuế điện tử/tổng số doanh nghiệp nộp thuế đạt trên 90%.
Hai là, về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực thi nhiệm vụ.
Các cơ quan, đơn vị đã bố trí công chức, viên chức có năng lực, kinh nghiệm làm việc tại bộ phận một cửa để hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ doanh nghiệp, cá nhân. Nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức các sở, ngành về vai trò hỗ trợ doanh nghiệp và người dân ngày càng được ghi nhận, đánh giá cao. Năm 2020, Chỉ số chi phí thời gian là chỉ số được doanh nghiệp đánh giá cao nhất của các sở, ngành trong 8 chỉ số thành phần của bộ Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành, địa phương (DDCI) với mức trung bình đạt 7,44 điểm; trong đó, 83% số doanh nghiệp đánh giá cán bộ, công chức (CBCC) giải quyết công việc hiệu quả; 80% số doanh nghiệp đánh giá CBCC thân thiện. Đến năm 2021, theo kết quả đánh giá PCI, chỉ số chi phí thời gian tiếp tục được cải thiện, bao gồm các chỉ tiêu đánh giá về cán bộ giải quyết công việc hiệu quả, cán bộ thân thiện (năm 2021, chỉ số chi phí thời gian đạt 7,57, tăng 0,34 điểm so với năm 2020).
Ba là, về triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp.
Thời gian qua, các đơn vị đã triển khai nhiều hoạt động nhằm kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp chịu ảnh hưởng, thiệt hại bởi dịch bệnh COVID-19 thông qua các chính sách về thuế, bảo hiểm, giảm các loại phí, lệ phí, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí…; hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động theo Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021, của Chính phủ, “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”; giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng sử dụng điện; đồng thời, triển khai các hoạt động về xây dựng kế hoạch hỗ trợ kết nối, tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ giải quyết khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Chính quyền tỉnh quyết liệt chỉ đạo các đơn vị thường xuyên triển khai công tác kiểm tra, hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình giải quyết thủ tục đầu tư, triển khai thực hiện dự án. Qua công tác kiểm tra, các vướng mắc, điểm nghẽn của các dự án được tháo gỡ, xử lý kịp thời, giúp nhà đầu tư bảo đảm triển khai thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; đồng thời, các dự án không triển khai hoặc nhà đầu tư cố tình vi phạm pháp luật bị xử lý, góp phần tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, công bằng giữa các nhà đầu tư; tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, xây dựng, thực hiện chương trình xúc tiến, kêu gọi các doanh nghiệp FDI đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp; thu hút những dự án về công nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, năng lượng tái tạo, chuyển giao công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường
Bốn là, về công tác thông tin, tuyên truyền.
Các cơ quan chuyên môn nói chung, các cơ quan được kiểm tra nói riêng chú trọng công bố thông tin, công khai, minh bạch tài liệu, văn bản trên các trang thông tin điện tử của đơn vị mình. Các cơ quan truyền thông (Báo Đắk Nông, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh) tăng cường thời lượng phát sóng, xây dựng chuyên trang, chuyên đề, tăng số lượng tin, bài để tuyên truyền các nội dung, nỗ lực của chính quyền địa phương về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trên sóng phát thanh, truyền hình và trên các phương tiện truyền thông xã hội (facebook, zalo,...).
Một số bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn quá trình cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh trong những năm gần đây, tỉnh Đắk Nông rút ra một số bài học kinh nghiệm trong công tác đổi mới, thu hút đầu tư, kinh doanh trên địa bàn tỉnh:
Một là, công tác chỉ đạo, điều hành quyết liệt cùng sự quan tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị có ý nghĩa quyết định tới việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Trong đó, quá trình chỉ đạo, cập nhật thông tin liên quan đến chính sách chung, xu hướng vận động mới, những thay đổi trong nước và quốc tế có vai trò quan trọng. Từ những thông tin, dữ liệu đầy đủ, chính xác, chính quyền và doanh nghiệp sẽ nhanh chóng có sự điều chỉnh kịp thời, tạo khả năng thích ứng tốt với những thay đổi mới, bảo đảm mục tiêu môi trường đầu tư được vận hành hiệu quả; từ đó, nâng cao vai trò của người đứng đầu các cấp, các ngành trong việc thực thi công vụ, phối hợp kiểm tra, hỗ trợ doanh nghiệp trong triển khai thực hiện các dự án đầu tư, tạo chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Hai là, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó chú trọng đẩy nhanh tiến độ hoàn thành quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quản lý tốt quy hoạch, đất đai, đồng thời thực hiện công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp được tiếp cận về đất đai; quy hoạch nhanh chóng, thuận tiện, đầy đủ thông tin; luôn đổi mới công tác xúc tiến đầu tư theo hướng chủ động, linh hoạt, đa dạng về hình thức tiếp cận; mở rộng phạm vi xúc tiến để thu hút các nhà đầu tư chiến lược có uy tín, năng lực thực hiện các dự án lớn, có tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế của tỉnh; nhất quán quan điểm xem doanh nghiệp như người bạn đồng hành đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trên cơ sở xác định việc phát triển kinh tế dựa vào 3 trụ cột chính là công nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và du lịch, tỉnh chủ trương đa dạng các hình thức xúc tiến đầu tư vào những dự án nông nghiệp công nghệ cao, nhà máy chế biến nông sản, năng lượng tái tạo; đồng thời, kêu gọi các tổ chức và doanh nghiệp tham gia phát triển sản phẩm du lịch gắn với Công viên địa chất Đắk Nông, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch cộng đồng,…
Ba là, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư. Nghiên cứu tích hợp các thủ tục có liên quan của các ngành để thực hiện giải quyết theo quy trình thủ tục hành chính liên thông, góp phần đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Tập trung nguồn lực đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết các thủ tục hành chính, tiến đến hoàn thành dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4, góp phần tạo điều kiện nhanh chóng, thuận lợi khi thực hiện các thủ tục đầu tư; tập trung nguồn vốn đầu tư công để tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng (như giao thông đường bộ, đường hàng không, đường sắt; hạ tầng khu công nghiệp, hệ thống điện, thông tin...) nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư đến với tỉnh, doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng về đất đai, quy hoạch.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Xây dựng chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng, trình độ, tay nghề cao đến với tỉnh Đắk Nông; tổ chức đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ đáp ứng yêu cầu của công việc. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nghề, phát triển kỹ năng cho người lao động đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn tỉnh; tăng cường công tác tuyên truyền ở cơ sở về mục tiêu, ảnh hưởng tích cực của các dự án đến với người dân, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của người dân khi triển khai thực hiện dự án trên địa bàn.
Tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đặt ra mục tiêu: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy ý chí, khát vọng vươn lên của các dân tộc; khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế, đưa Đắk Nông phát triển nhanh, bền vững; giữ vững quốc phòng, an ninh; phấn đấu trở thành tỉnh trung bình khá vào năm 2025 và tỉnh phát triển khá vào năm 2030 của vùng Tây Nguyên”. Triển khai thực hiện nghị quyết trên, Tỉnh ủy đã ban hành các chương trình hành động nhằm thực hiện đồng bộ các giải pháp, hướng tới việc hoàn thành mục tiêu nghị quyết đề ra, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ chính sau:
Thứ nhất, về công tác xúc tiến, thu hút đầu tư và giải quyết thủ tục đầu tư.
Cần đổi mới công tác xúc tiến đầu tư theo hướng chủ động tiếp cận nhà đầu tư; đa dạng, linh hoạt về hình thức thực hiện; hoạt động có trọng tâm, trọng điểm. Chủ động lựa chọn dự án có ảnh hưởng lớn đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để quảng bá tiềm năng, lợi thế của tỉnh, thực hiện xúc tiến, thu hút các nhà đầu tư có thế mạnh thực hiện đầu tư, kinh doanh. Trên cơ sở quy hoạch chung của tỉnh đã được phê duyệt, xây dựng đề án thu hút đầu tư của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025, tạo cơ sở định hướng thu hút đầu tư hằng năm và cho cả giai đoạn.
Tập trung nguồn lực đầu tư nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin của các sở, ban, ngành nhằm đáp ứng yêu cầu đồng bộ hóa hệ thống chung quốc gia. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, doanh nghiệp có thể tiếp cận thông tin, tương tác trực tiếp hoặc nộp hồ sơ bằng nhiều hình thức để tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp; thực hiện tốt công tác chuẩn bị các điều kiện pháp lý của các dự án được phê duyệt trong danh mục thu hút đầu tư nhằm giảm thiểu hơn nữa thời gian giải quyết thủ tục đầu tư; tăng cường công tác tập huấn, tham quan, học hỏi để nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công việc trong tình hình mới.
Thứ hai, tiếp tục rà soát, nâng cao chất lượng đề án, kế hoạch cải thiện chỉ số PCI; đôn đốc, chấn chỉnh thực thi công vụ, nâng cao hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện đề án, kế hoạch cải thiện chỉ số PCI của tỉnh với các nhóm giải pháp, hành động quyết liệt, đổi mới, sáng tạo, cụ thể, phù hợp hơn với đặc thù hệ thống doanh nghiệp của tỉnh; đồng thời, nâng cao tinh thần thực thi công vụ, chấn chỉnh quá trình triển khai thực hiện đề án, đưa ra nhiều giải pháp đồng bộ nhằm giám sát, đôn đốc, đánh giá quá trình triển khai của các sở, ngành, địa phương; phân tích đồng bộ những kết quả PCI và DDCI làm cơ sở đánh giá nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh đến cấp cơ sở và chuyên viên xử lý.
Tập trung chỉ đạo các ngành, cơ quan, địa phương liên quan thực hiện các chỉ tiêu thành phần thực chất (lưu ý các chỉ số thành phần giảm, các chỉ số thành phần tăng thấp để ưu tiên thực hiện...); tiếp tục thực hiện và nâng cao hiệu quả các mô hình đối thoại, hỗ trợ doanh nghiệp (cà phê doanh nhân, đối thoại...) hiện đang hoạt động; tham khảo, đề xuất những mô hình hỗ trợ, kết nối doanh nghiệp hiệu quả, hiện đại của địa phương để tổ chức triển khai; thực hiện cải cách hành chính theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tăng tính minh bạch để giảm thời gian, chi phí chính thức và chi phí không chính thức, nhất là trong bối cảnh phục hồi kinh tế do tác động của dịch bệnh COVID-19; ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc, sớm nâng tỷ lệ giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh ở mức độ 3, 4; củng cố các bộ phận làm việc trực tiếp với doanh nghiệp; cử cán bộ nắm chắc nghiệp vụ, đủ khả năng hướng dẫn và giải quyết các điểm nghẽn, vướng mắc, tiến hành hỗ trợ đến khâu hoạt động cuối cùng cho doanh nghiệp, nhà đầu tư; thay đổi tư duy từ “cho phép”, “cấp phép” sang tư duy “phục vụ”.
Thứ ba, về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư công và công tác theo dõi, kiểm tra để hỗ trợ và xử lý dự án đầu tư.
Xây dựng, hoàn thiện các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư để điều chỉnh, bổ sung hoặc thay thế các chính sách không còn phù hợp nhằm hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư quan tâm, thực hiện dự án trên địa bàn tỉnh; đầu tư công được xác định là động lực để thu hút đầu tư vào tỉnh, trong đó tập trung vào đầu tư kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông; tính toán, triển khai các công trình, dự án có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của tỉnh trong những năm tới. Ủy ban nhân dân tỉnh quyết liệt chỉ đạo các cấp, các ngành, các chủ đầu tư khẩn trương triển khai các công trình, dự án đã được phê duyệt, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật; tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ; lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt, huy động các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước; bảo đảm cơ cấu đầu tư hợp lý, hiệu quả giữa các địa phương, lĩnh vực; ưu tiên cho các vùng động lực, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số...; chủ động điều chỉnh quy mô, vốn đầu tư một số dự án để phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội, phù hợp hơn với yêu cầu của cấp có thẩm quyền.
Thường xuyên quan tâm chỉ đạo các ngành, địa phương theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh, quy định trách nhiệm cụ thể của các đơn vị trong việc chủ động thực hiện công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật; qua đó, hỗ trợ cho các nhà đầu tư triển khai dự án đúng theo tiến độ và các quy định của pháp luật./.
-----------------
(1) Xem: “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh: PCI của tỉnh Đắk Nông”, https://pcivietnam.vn/ho-so-tinh/dak-nong
(2) Như Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đầu tư Nhà máy Alumin Nhân cơ, với tổng mức đầu tư là 17.822 tỷ đồng, công suất 650.000 tấn/năm, hiện nhà máy đã đi vào hoạt động và doanh thu năm 2020 đạt 2.898 tỷ đồng; Công ty trách nhiệm hữu hạn luyện kim Trần Hồng Quân đầu tư dự án Nhà máy Điện phân nhôm Đắk Nông, có tổng vốn đầu tư dự kiến trên 15.000 tỷ đồng, công suất đạt 450.000 tấn/năm, dự kiến hoạt động trong năm 2023; chấp thuận chủ trương đầu tư 6 dự án điện gió, 3 dự án điện mặt trời,...
Xây dựng tỉnh Đắk Nông phát triển nhanh và bền vững  (24/12/2021)
- Quyết tâm đưa Vĩnh Phúc cùng cả nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Tỉnh Vĩnh Phúc và iMarket Việt Nam ký kết Bản ghi nhớ về việc nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu đầu tư dự án hạ tầng khu công nghiệp và sân golf
- Vĩnh Phúc sẽ phân bổ, giao chi tiết vốn đầu tư công năm 2025 cho các dự án trước ngày 31-12-2024
- Sở Kế hoạch và Đầu tư Vĩnh Phúc: Phấn đấu năm 2025 nằm trong top 10 về chuyển đổi số
- Vĩnh Phúc: Tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm tiểu thủ công nghiệp
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay