Quản trị di sản bền vững để góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh

PGS, TS NGUYỄN NGỌC HÀ
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
13:22, ngày 21-12-2024

TCCS - Vượt qua các lớp bụi thời gian cùng bao thăng trầm của lịch sử, nhiều di sản vẫn hiện diện, trực tiếp hoặc gián tiếp, lặng thầm lan tỏa giá trị trong cuộc sống đương đại. Không chỉ là chứng nhân của quá khứ, ngày nay, di sản còn trở thành nguồn lực vô cùng quý giá cần được quản trị một cách bền vững để được bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị trong phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, miền, địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh - “một Việt Nam thu nhỏ” nơi địa đầu Đông Bắc của Tổ quốc hiện còn lưu giữ được hệ thống di sản rất phong phú, đa dạng và đặc sắc.

1- Trong sự nghiệp gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta luôn coi trọng vị trí, vai trò của văn hóa, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Các giá trị văn hóa - yếu tố cốt lõi, cơ bản của văn hóa được kết tinh trong hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đồ sộ, đặc sắc của dân tộc ta chính là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng, tạo nên bản sắc của quốc gia - dân tộc. Những trầm tích văn hóa kết tinh ở các di sản được lưu truyền và không ngừng bồi đắp qua các thế hệ, tạo nên mạch nguồn bền bỉ, thầm lặng nối kết dòng chảy xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai. Các di sản tồn tại có hệ thống, tạo nên không gian di sản, vùng di sản, hệ sinh thái di sản.

Theo Luật Di sản văn hóa (năm 2001), di sản văn hóa nước ta là những sản phẩm vật chất, tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, bao gồm di sản văn hóa vật thể (di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia) và di sản văn hóa phi vật thể (tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (năm 1998) khẳng định vị trí, vai trò của di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Từ đó, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (năm 2014) cũng nhấn mạnh nhiệm vụ bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế, gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục khẳng định cần: “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội”(1). Đến Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta nhấn mạnh và chỉ rõ: “Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội”(2). Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (ngày 24-11-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: Di sản văn hóa là “tài sản vô cùng quý báu do Tổ tiên, Cha ông ta mấy nghìn năm để lại(3) …; do đó cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc”(4).

Thời gian qua, cùng với những bước phát triển về tư duy trên nhiều lĩnh vực, tư duy về văn hóa, trong đó có di sản văn hóa ở nước ta cũng có sự đổi mới theo những bước tiến chung của nhân loại. Di sản văn hóa không chỉ là tài sản của quốc gia, dân tộc, là chứng nhân của cuộc sống trong quá khứ cần bảo tồn, mà còn là nguồn lực, là tài nguyên có thể chuyển hóa vào quá trình sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, tạo ra lợi nhuận và giá trị kinh tế, từ đó tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, xuất hiện tư duy “làm giàu từ văn hóa”, “làm giàu từ di sản”, phát triển kinh tế di sản và các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo trên cơ sở khai thác và phát huy tiềm năng, thế mạnh cũng như các giá trị “đặc hữu” của di sản. Di sản cùng các dịch vụ hệ sinh thái di sản ngày càng trở thành một thành phần ưu tiên trong quy hoạch, chiến lược và chính sách phát triển của nhiều quốc gia, vùng, miền, địa phương. Hiện nay, vấn đề quản trị di sản theo hướng bền vững để phát huy hiệu quả các giá trị di sản trong phát triển kinh tế - xã hội đang được đặt ra và ngày càng trở nên cấp thiết khi di sản đang ngày càng có nhiều đóng góp trong phát triển kinh tế di sản và các ngành công nghiệp văn hóa, song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức an ninh phi truyền thống trong bối cảnh hội nhập quốc tế với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự biến đổi khí hậu với những diễn biến khó lường, mặt trái của kinh tế thị trường…

Quản trị di sản là cách thức hoạch định tầm nhìn về di sản, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở khai thác di sản với vai trò là nguồn lực quan trọng để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Để quản trị di sản hiệu quả, thành công, cần có tầm nhìn chiến lược về bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản, xác định mục tiêu của từng quốc gia, vùng, miền, địa phương, từ đó có những bước đi cụ thể, như đánh giá thực trạng nguồn lực di sản; xây dựng kế hoạch nghiên cứu, sưu tầm, hệ thống hóa, quản lý, bảo tồn và khai thác nguồn lực di sản trong phát triển kinh tế - xã hội (có thể gắn với phát triển kinh tế di sản, các ngành công nghiệp văn hóa); đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp, hành động cụ thể để đạt được mục tiêu trong thời gian nhất định; đồng thời đưa ra các kế hoạch kiểm soát và quản trị rủi ro, đo lường, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện. Trong quản trị di sản, vấn đề phân bổ các nguồn lực (nguồn lực con người, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn…) một cách thật hợp lý có ý nghĩa quan trọng để có được sự vận hành nhịp nhàng, thông suốt. Bên cạnh đó, cần có cách tiếp cận liên ngành để vừa bao quát được các loại hình di sản, vừa hiểu rõ các khía cạnh của từng di sản, sử dụng nhiều phương pháp đánh giá, cung cấp thông tin đa chiều và cập nhật phục vụ tốt việc quản trị tài nguyên di sản.

Cùng với đó, để làm giàu từ di sản một cách bền vững, cần bảo đảm lợi ích của các chủ thể, đặc biệt là bảo đảm sinh kế, thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi văn hóa cho nhân dân trong vùng di sản. Việc tạo ra những giá trị gia tăng cho di sản không chỉ là giá trị kinh tế mà còn là các giá trị văn hóa tinh thần được lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng cũng như các du khách tham quan, trải nghiệm di sản. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vấn đề đổi mới tư duy lãnh đạo và quản lý di sản văn hóa nhằm thích ứng với cơ chế thị trường, với biến đổi khí hậu, sự phát triển của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, xu thế chuyển đổi số… có ý nghĩa quyết định trong quản trị di sản bền vững. Việc tích cực ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là thực hiện số hóa, phát triển công nghiệp sáng tạo và các lĩnh vực khác của công nghiệp văn hóa không chỉ giúp cho việc bảo tồn, phục dựng di sản được thuận lợi hơn mà còn làm cho di sản trở nên sống động, lan tỏa giá trị trong cuộc sống đương đại.

2- Quan điểm quản trị di sản bền vững có ý nghĩa định hướng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như các địa phương. Và thực tiễn đã chứng minh, địa phương nào thực hiện tốt công tác quản trị di sản thì địa phương đó đạt được nhiều kết quả quan trọng trong bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị các di sản, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo ra thêm việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống văn hóa của nhân dân, vừa quảng bá hiệu quả những giá trị văn hóa đặc sắc của địa phương tới khách du lịch trong và ngoài nước. Quảng Ninh là một trong những địa phương tiêu biểu của nước ta đã và đang thực hiện quản trị di sản theo hướng bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, văn hóa, con người Quảng Ninh trong bối cảnh mới.

Với thiên nhiên tươi đẹp, địa hình đa dạng gồm cả vùng núi, đồng bằng và miền biển, tỉnh Quảng Ninh hội tụ hệ thống di sản thiên nhiên và di sản văn hóa rất phong phú, đa dạng, kết tinh những giá trị văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc, vùng, miền trong hành trình xây dựng và phát triển lâu dài. Có thể kể tới di sản tiêu biểu không chỉ của tỉnh Quảng Ninh mà còn là của cả nước - Vịnh Hạ Long - một kỳ quan thiên nhiên độc đáo đã 3 lần được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới (năm 1994, năm 2000, năm 2023 cùng quần đảo Cát Bà của thành phố Hải Phòng). Vịnh Hạ Long có diện tích 1.553 km2, bao gồm 1.969 hòn đảo (trong đó 980 hòn đảo đã có tên) với cảnh quan thiên nhiên tuyệt sắc và hệ sinh thái điển hình, độc đáo. Nối liền với vịnh Hạ Long là khoảng 600 hòn đảo lớn, nhỏ nằm trong vùng vịnh Bái Tử Long (thuộc huyện Vân Đồn) với hàng trăm núi đá, đảo đá cùng nhiều hang động, những bãi cát trắng trải dài bao quanh các xã đảo với nhiều loại động thực vật quý hiếm.

Bên cạnh các di sản thiên nhiên độc đáo đó, tỉnh Quảng Ninh còn lưu giữ được hệ thống di sản văn hóa vô cùng phong phú, đặc sắc với hơn 600 di sản văn hóa vật thể (đình, chùa, đền, miếu, danh lam thắng cảnh…); gần 400 di sản văn hóa phi vật thể (lễ hội, phong tục, tập quán, trò chơi dân gian...), trong đó có 8 di tích quốc gia đặc biệt; 12 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; di sản thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (trong đó, có then nghi lễ người Tày ở huyện Bình Liêu) được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tỉnh Quảng Ninh hiện có hơn 100 lễ hội, trong đó, có 76 lễ hội đã được kiểm kê đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể. Các lễ hội văn hóa, lịch sử truyền thống được các địa phương huy động các nguồn lực tổ chức hiệu quả, trở thành điểm đến văn hóa - tâm linh nổi tiếng cả nước, như lễ hội Yên Tử, lễ hội Bạch Đằng, lễ hội Đền Cửa Ông,… cùng nhiều lễ hội mới được xây dựng thành sản phẩm văn hóa thường niên, như lễ hội Carnaval Hạ Long, lễ hội hoa anh đào - mai vàng Yên Tử, lễ hội hoa sở, lễ hội trà hoa vàng... Gắn với các lễ hội truyền thống là các trò chơi dân gian, các loại hình văn hóa, văn nghệ truyền thống, trang phục, tri thức dân gian về lâm - nông - ngư nghiệp, văn hóa ẩm thực truyền thống của đồng bào các dân tộc tỉnh Quảng Ninh.

Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh còn có khoảng 20 làng nghề với nhiều ngành, nghề khác nhau, như gốm sứ, thủy tinh, mây tre đan, điêu khắc than đá, tiểu thủ công đồ gỗ, thêu ren, dệt, chế biến nông, lâm, thủy sản, nghề đóng và sửa chữa tàu…; trong đó, có những nghề và làng nghề truyền thống đã được công nhận, như nghề truyền thống làm bánh gio Phong Cốc, nghề làm bún Hiệp Hòa, nghề đóng tàu thuyền vỏ gỗ Đò Chanh (thị xã Quảng Yên), các làng nghề truyền thống, như làng nghề đan ngư cụ Hưng Học, làng nghề đóng tàu thuyền vỏ gỗ Cống Mương (thị xã Quảng Yên)… Các sản phẩm của làng nghề tỉnh Quảng Ninh kết tinh giá trị thẩm mỹ, giá trị kinh tế, giá trị văn hóa, phản ánh sinh động phong tục, tập quán và khát vọng của người dân miền đất địa đầu Đông Bắc của Tổ quốc. Tất cả đã góp phần tạo dựng hệ thống di sản phong phú và đặc sắc của tỉnh Quảng Ninh, là tiềm năng, thế mạnh có thể được chuyển hóa thành nguồn lực “đặc hữu” trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.

Trên cơ sở quán triệt các quan điểm của Đảng về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản, đồng thời xác định các lợi thế từ nguồn lực di sản của địa phương, thời gian qua, tỉnh Quảng Ninh đã và đang chủ động, tích cực, nỗ lực trong nâng cao năng lực quản trị di sản theo hướng bền vững.

Trước tiên, về mặt quan điểm, tầm nhìn chiến lược, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh luôn đề cao vị trí, vai trò của văn hóa và đưa ra những định hướng về phát triển văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Quan điểm đó có sự xuyên suốt, kế thừa từ các kỳ đại hội trước đó và bổ sung những điểm mới phù hợp với bối cảnh mới và thực tiễn địa phương. Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV xác định một số quan điểm, định hướng phát triển giai đoạn 2020 - 2025, trong đó có quan điểm lấy phát triển văn hóa, xây dựng văn minh sinh thái, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường làm trọng điểm; chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột (thiên nhiên, con người, văn hóa)…; phát triển công nghiệp dịch vụ, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp sáng tạo được tổ chức sản xuất ở trình độ cao. Nghị quyết Đại hội cũng đề ra một trong 5 nhiệm vụ trọng tâm là kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người, xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh; giữa đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa gắn với nâng cao hiệu quả kinh tế đô thị, xây dựng nông thôn mới, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng, miền, bảo đảm an sinh xã hội, tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Một trong các khâu đột phá được Nghị quyết Đại hội xác định là xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh gắn với thu hẹp nhanh khoảng cách giàu, nghèo và chênh lệch vùng, miền trong tỉnh. Đại hội cũng đề ra những nhiệm vụ thường xuyên và các giải pháp lớn, trong đó có kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người, xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh...

Từ Nghị quyết Đại hội, Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành các chương trình hành động, các kế hoạch công tác để triển khai, tổ chức thực hiện đưa Nghị quyết vào cuộc sống, trong đó có các chương trình về phát triển văn hóa, con người, bảo đảm an sinh, tiến bộ, công bằng xã hội. Đặc biệt, ngày 30-10-2023, Tỉnh ủy Quảng Ninh ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TU “Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững”, xác định quan điểm xây dựng, phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, liên tục của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, được đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các nhiệm vụ về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác và hội nhập quốc tế; đầu tư cho văn hóa, con người là đầu tư cho phát triển bền vững; phải sử dụng hiệu quả, hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nguồn lực của Nhà nước kết hợp với huy động tối đa nguồn lực xã hội để tăng đầu tư cho phát triển văn hóa, con người phù hợp với các định hướng chiến lược, quy hoạch phát triển của quốc gia, của vùng Đồng bằng sông Hồng và của tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời, Nghị quyết nhấn mạnh, kiên trì chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, phát triển xanh, bền vững dựa vào ba trụ cột: Thiên nhiên, con người và văn hóa, kết hợp với xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập và cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trên cơ sở đó lựa chọn, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa, sản phẩm văn hóa chủ lực có trọng tâm, trọng điểm mà địa phương có tiềm năng, lợi thế như: du lịch văn hóa, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, điện ảnh, thời trang nhằm tạo đột phá trong đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, dịch vụ. Trong đó, Nghị quyết cũng chỉ ra một trong những nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện là bảo tồn, phục hồi và phát huy giá trị các di sản văn hóa Quảng Ninh, các công trình kiến trúc, cảnh quan mang bản sắc văn hóa truyền thống, đặc trưng; tập trung phát triển công nghiệp văn hóa, sáng tạo và dịch vụ văn hóa trở thành một mũi đột phá chiến lược thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.

 Từ định hướng đó, giai đoạn 2018 - 2022, tỉnh Quảng Ninh đã dành nguồn lực thỏa đáng tương xứng với mức thu ngân sách của tỉnh cho đầu tư văn hóa với 4.759 tỷ đồng(5); đồng thời huy động nguồn lực xã hội hóa hàng nghìn tỷ đồng để đầu tư tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh… trở thành những điểm đến hấp dẫn, thu hút hàng triệu lượt khách du lịch hằng năm, tiêu biểu như Yên Tử, Cửa Ông, Cái Bầu, Ba Vàng... Các di sản lớn của tỉnh, như Vịnh Hạ Long, Yên Tử, Bạch Đằng đều đã và đang được định hướng, xây dựng hồ sơ để trở thành những di sản thế giới liên vùng. Việc đẩy mạnh xây dựng hồ sơ đề nghị Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử là Di sản thế giới cũng sẽ tiếp tục góp phần đưa Quảng Ninh trở thành địa danh nổi tiếng toàn cầu, mở ra cơ hội lớn trong giao lưu, hội nhập quốc tế thông qua việc xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc dựa trên khai thác giá trị của các di sản văn hóa. Năm 2024, tỉnh Quảng Ninh lựa chọn chủ đề công tác năm là “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh”, tiếp tục huy động sự vào cuộc tích cực, quyết tâm của các cấp ủy, chính quyền và nhân dân trong việc giữ gìn, bồi đắp và phát huy giá trị văn hóa, con người Quảng Ninh trong xây dựng khối đại đoàn kết, tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Cùng với đó, tỉnh Quảng Ninh xây dựng quy hoạch, triển khai các dự án, đề án về nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh; xây dựng Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị một số làng dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch cộng đồng giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030... gắn với việc đầu tư phục dựng các lễ hội truyền thống, bảo tồn một số bộ môn nghệ thuật dân tộc để trở thành sản phẩm văn hóa, du lịch riêng có, độc đáo. Trên cơ sở đó, các đơn vị, địa phương tích cực thực hiện khảo cứu, sưu tầm, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vùng dân tộc thiểu số, như các tác phẩm văn học, văn nghệ, trò chơi dân gian, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống... Nhiều loại hình văn hóa dân gian tiêu biểu, đặc biệt là văn hóa của các dân tộc thiểu số đã được phục dựng và phát huy giá trị, như tục hát “đúm” trên biển làng chài Cửa Vạn; hát nhà tơ, hát múa cửa đình; lễ hội cấp sắc, lễ hội xuống đồng… Đối với hệ thống di sản văn hóa vật thể ở vùng dân tộc thiểu số, tỉnh tiếp tục chú trọng bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, danh lam thắng cảnh; bảo tồn bản, làng truyền thống thông qua việc xây dựng làng, bản văn hóa của dân tộc Tày, Sán Chỉ (Bình Liêu), dân tộc Dao (Hạ Long, Tiên Yên, Móng Cái)...; gìn giữ trang phục truyền thống, công cụ lao động sản xuất truyền thống, nhạc cụ, khí cụ...

Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh thường xuyên duy trì tổ chức các hoạt động văn hóa giàu ý nghĩa và sức hấp dẫn, như ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc Tày, Dao, Sán Chỉ ở Bình Liêu, Tiên Yên, Ba Chẽ, ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc vùng Đông Bắc, ngày hội văn hóa - thể thao tỉnh Quảng Ninh… với những sản phẩm văn hóa du lịch độc đáo, tiêu biểu là những trận đá bóng của các cô gái Sán Chỉ ở Bình Liêu, Hội thi Vua gà huyện Tiên Yên, Hội thi ẩm thực gà Tiên Yên, Liên hoan ẩm thực đường phố, Lễ hội nghệ thuật đường phố... Tất cả đã mang đến một không gian sinh hoạt văn hóa hấp dẫn, nhiều màu sắc, góp phần khẳng định dấu ấn của một vùng đất giàu bản sắc văn hóa. Để gìn giữ, phát huy các môn thể thao dân tộc, nhiều môn, như đẩy gậy, đua thuyền chải, bắn cung, bắn nỏ, kéo co... đã được đưa vào thi đấu chính thức tại các giải thể thao thường niên của tỉnh. Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh đã xây dựng Đề án “Bảo tồn, khôi phục và phát huy các môn thể thao dân tộc giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030”, tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức, xây dựng cơ chế, chính sách về bảo tồn, khôi phục và phát huy những môn thể thao dân tộc.

Ngày 21-6-2023, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 161/KH-UBND “Về thí điểm xây dựng, bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa 4 làng dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch cộng đồng, khu vực miền núi tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2023 - 2025” nhằm gìn giữ những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc, tạo nền tảng để thúc đẩy phát triển du lịch, đồng thời để sự phát triển của du lịch tạo tiềm lực, góp phần vào việc tôn tạo, trùng tu các di tích, phục dựng các lễ hội, các loại hình nghệ thuật dân gian. Hiện các địa phương đang tích cực xây dựng 4 làng dân tộc thiểu số là làng người Dao ở thôn Pò Hèn, xã Hải Sơn (thành phố Móng Cái); làng người Tày ở Bản Cáu, xã Lục Hồn (huyện Bình Liêu), làng người Sán Dìu ở thôn Voòng Tre, xã Bình Dân (huyện Vân Đồn) và làng người Sán Chỉ (Sán Chay) ở thôn Lục Ngù, xã Húc Động (huyện Bình Liêu). Trong giai đoạn 2023 - 2025, Quảng Ninh xây dựng thêm 9 điểm du lịch cộng đồng có giá trị nổi trội về tài nguyên du lịch, giá trị văn hóa, lịch sử địa phương, đáp ứng tiêu chí về khả năng cung ứng, tính cộng đồng và giá trị bền vững. Giai đoạn sau năm 2025, tỉnh tập trung đánh giá, rà soát kết quả thực hiện các chính sách; điều chỉnh, cập nhật số lượng điểm phát triển du lịch cộng đồng còn lại theo điều kiện thực tế và cân đối nguồn ngân sách.

Bên cạnh đó, hệ thống làng nghề là một trong những lợi thế so sánh để tỉnh Quảng Ninh có thể xây dựng và phát triển mô hình du lịch văn hóa tại các làng nghề. Hằng năm, tỉnh hỗ trợ nhiều cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ làng nghề, tư vấn thiết kế mẫu sản phẩm, trong đó có các mẫu sản phẩm phục vụ du lịch; có nhiều hoạt động giới thiệu, quảng bá các sản phẩm OCOP độc đáo của các làng nghề tiêu biểu; nhân rộng các mô hình du lịch văn hóa gắn kết với xây dựng thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở một số làng nghề (như tổ chức thăm nhà các nghệ nhân, nghe kể những câu chuyện làm nghề, trải nghiệm quy trình sản xuất một sản phẩm làng nghề…). Tỉnh cũng tổ chức ngày càng hiệu quả hơn việc liên kết sản xuất - thiết kế - tiêu thụ để nâng cao giá trị thương hiệu của các sản phẩm làng nghề thông qua các hội chợ, triển lãm, lễ hội; qua đó giới thiệu với du khách trong và ngoài nước hiểu được hồn cốt, bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc tỉnh Quảng Ninh; đồng thời, qua đó góp phần bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương ngày càng phát triển.

Nhờ tầm nhìn chiến lược về phát triển văn hóa nói chung và về bảo tồn, phát huy nguồn lực di sản nói riêng, cùng sự chủ động, tích cực trong triển khai các quy hoạch, chương trình, kế hoạch trong xây dựng các sản phẩm văn hóa, sản phẩm du lịch mới, độc đáo đa dạng trên cơ sở phát huy di sản thiên nhiên và văn hóa Quảng Ninh, ngành du lịch cũng như các ngành kinh tế dựa trên di sản của tỉnh Quảng Ninh ngày càng phát triển. Theo báo cáo của ngành du lịch Quảng Ninh, trong giai đoạn từ năm 2015 - 2022, lượng khách và doanh thu từ du lịch đều tăng trưởng tốt qua từng năm, từ 7,76 triệu lượt năm 2015 tăng lên 14 triệu lượt vào năm 2019 (trong đó lượng khách quốc tế tăng từ 2,75 triệu lượt khách lên tới 5,74 triệu lượt; lượng khách nội địa tăng từ hơn 5 triệu lượt lên hơn 8,25 triệu lượt); doanh thu từ du lịch từ 10.900 tỉ đồng năm 2015 tăng lên 29.486 tỉ đồng vào năm 2019. Năm 2023, du lịch Quảng Ninh có sự hồi phục và bứt phá mạnh mẽ với trên 15 triệu lượt khách du lịch, trong đó có trên 2 triệu lượt du khách quốc tế (tăng 33,6% so với cùng kỳ năm 2022), doanh thu du lịch ước đạt trên 33.000 tỉ đồng (tăng 48% so với cùng kỳ năm 2022). Trong 9 tháng năm 2024, tỉnh Quảng Ninh đón 15,6 triệu lượt khách (tăng 20% so với cùng kỳ năm 2023); tổng thu du lịch ước đạt 36.856 tỉ đồng (tăng 39% cùng kỳ năm 2023). 

3- Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì hiện nay, công tác bảo tồn và phát huy di sản của tỉnh Quảng Ninh vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Không ít cấp, ngành của địa phương và người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác quy hoạch, quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, một số địa phương của tỉnh còn hạn chế về năng lực quản trị di sản, chưa có sự điều tiết hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, còn tình trạng quá coi trọng tăng trưởng kinh tế, dẫn đến nhiều vấn đề bất cập nảy sinh. Nhiều di tích không được bảo tồn một cách hợp lý. Còn sự mất cân đối, sự chênh lệch trong quá trình phát huy giá trị của từng di tích, di sản văn hóa. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản vẫn chưa được các ngành, các cấp có liên quan phối hợp chặt chẽ và hiệu quả, thậm chí ở một số nơi còn buông lỏng, khiến việc xâm phạm, lấn chiếm di sản còn diễn ra. Nguồn lực đầu tư cho các hoạt động kinh tế di sản ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh còn hạn chế. Nguồn nhân lực quản lý di sản các cấp còn mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn. Ngoài ra, công tác bảo vệ môi trường cũng là một vấn đề đang rất cần được quan tâm tại các điểm di sản trên địa bàn tỉnh.

Do đó, thời gian tới, để nâng cao hiệu quả quản trị di sản, để di sản thực sự phát huy vai trò là nguồn lực và động lực trong xây dựng văn hóa, con người, thúc đẩy sự phát triển bền vững của tỉnh Quảng Ninh, hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra trong Nghị quyết số 17-NQ/TU, ngày 30-10-2023, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh “Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững”(6), cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như sau:

Một là, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và người dân Quảng Ninh về vị trí, vai trò của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, về quyền và nghĩa vụ đối với các di sản văn hóa. Tiếp tục đổi mới tư duy, trước hết của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp trong vấn đề quản trị di sản, coi đầu tư phục dựng, bảo tồn và phát huy di sản là đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội, để di sản văn hóa trở thành sản phẩm hàng hóa, sản phẩm du lịch tham gia vào thị trường tiêu dùng của xã hội. Cần nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, giữa bảo tồn và phát huy, giữa khai thác và bảo vệ nhằm khơi thông và phát huy hiệu quả giá trị của các di sản.

Hai là, nghiên cứu và giải quyết tốt mối quan hệ liên vùng, liên cấp, liên ngành trong công tác quản trị địa phương, quản trị quốc gia về phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả quản trị di sản văn hóa, gắn kết hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh, trong đó chú ý các chính sách đặc thù đối với di sản, phục dựng di sản, phát triển kinh tế di sản. Thực hiện phân cấp quản lý di sản văn hóa để nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Chú trọng hơn nữa yếu tố bảo tồn di sản văn hóa trong công tác quy hoạch của địa phương, tiếp cận vấn đề một cách tổng thể, liên ngành để đề xuất các giải pháp thích hợp, tạo dựng cảnh quan phù hợp cho khu vực di sản văn hóa, góp phần làm tăng giá trị của di sản văn hóa và tạo điểm nhấn, sức hấp dẫn cho các địa phương có di sản trên địa bàn tỉnh. Đề cao vai trò của nhân dân, đồng thời xây dựng cơ chế hợp tác, chung tay giữa cộng đồng, doanh nghiệp và chính quyền trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó cần giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa trách nhiệm và lợi ích của cộng đồng cư dân trong toàn bộ các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Ba là, tăng cường đầu tư và đa dạng hóa các nguồn vốn (nguồn vốn của Nhà nước, nguồn vốn xã hội hóa) trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tiêu biểu của các dân tộc, như Đề án về phát triển du lịch cộng đồng bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; Đề án xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh gắn với thu hẹp nhanh khoảng cách giàu - nghèo và chênh lệch vùng, miền trong tỉnh, giai đoạn 2021 - 2025; chương trình bảo tồn các lễ hội truyền thống; tổ chức ngày văn hóa, tuần văn hóa - thể thao các dân tộc vùng Đông Bắc; bảo tồn, quảng bá, giới thiệu kiến trúc đặc trưng, không gian văn hóa trong sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số... Chú trọng công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy tốt hơn nữa giá trị Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và một số công trình trong các khu, cụm di tích quốc gia đặc biệt, di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh.

Bốn là, tiếp tục nâng cao hiệu quả gắn kết giữa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa và chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trên cơ sở khai thác thế mạnh, tiềm năng văn hóa về cảnh quan, giá trị truyền thống, ẩm thực vùng, miền, nhất là trong hoạt động du lịch di sản, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Nghiên cứu xây dựng hệ sinh thái thúc đẩy phát triển thị trường công nghiệp văn hóa trên địa bàn tỉnh; thu hút đầu tư dàn dựng, tổ chức các chương trình sản xuất phim điện ảnh, âm nhạc, giải trí, biểu diễn thực cảnh gắn với văn hóa biển, đảo, văn hóa truyền thống của các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Xây dựng Đề án phát triển các làng nghề truyền thống trở thành sản phẩm văn hóa du lịch; phát triển văn hóa ẩm thực Quảng Ninh thông qua việc lựa chọn, hoàn thiện các món ăn địa phương, nâng tầm thành nghệ thuật từ khâu sản xuất đến thưởng thức kết nối thành điểm đến của khách du lịch, hướng tới xuất khẩu ẩm thực truyền thống; từng bước hình thành các cơ sở dịch vụ ăn uống đạt chuẩn xếp hạng quốc tế. Phát huy hơn nữa giá trị văn hóa của từng địa phương qua mô hình OCOP. Nghiên cứu xây dựng Đề án thí điểm hình thành và phát triển Khu công nghiệp văn hóa ứng dụng công nghệ cao tại thành phố Hạ Long nhằm tạo kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cho công nghiệp văn hóa phát triển; Đề án thí điểm thành lập Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp văn hóa Quảng Ninh nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường và doanh nghiệp, dự án về phát triển công nghiệp văn hóa, hướng tới xuất khẩu văn hóa.

Năm là, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của tỉnh. Xây dựng cơ sở dữ liệu, số hóa 3D các di sản văn hóa, nhất là các di tích quốc gia đặc biệt, bảo vật quốc gia của tỉnh Quảng Ninh, tăng cường ứng dụng chuyển đổi số với các công nghệ dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR), tạo ra các không gian trải nghiệm du lịch đa dạng, đưa di sản đến gần hơn với công chúng. Thông qua sự gắn kết giữa công nghệ số với phát triển du lịch thông minh, xây dựng các sản phẩm du lịch hấp dẫn để quảng bá và phát huy giá trị di sản Quảng Ninh trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Sáu là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh. Xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho nhân lực hiện đang đảm nhiệm công việc này tại các cấp nhằm nâng cao trình độ về chuyên môn, cập nhật tiếp thu kiến thức mới áp dụng vào việc quản trị và quản lý di sản văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tăng cường nghiên cứu, trao đổi, học tập kinh nghiệm, bồi dưỡng về quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, xây dựng công nghiệp văn hóa. Đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế để trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực bảo tồn di sản, phát triển công nghiệp văn hóa, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực văn hóa, cơ chế vận hành lĩnh vực di sản, vấn đề áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ, huy động vốn xã hội trong bảo tồn và phát huy các giá trị di sản./.

----------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 127
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 145
(3) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản số 979, tháng 12-2021, tr. 13
(4) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tlđd, tr. 13
(5) Xem: Nguyễn Dung: “Giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh - Động lực cho phát triển nhanh, bền vững”, đăng trên https://dichvucong.quangninh.gov.vn
(6) Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2030 của tỉnh Quảng Ninh: 100% người dân được tuyên truyền về hệ giá trị tỉnh Quảng Ninh, hệ giá trị con người Quảng Ninh, hệ giá trị quốc gia, văn hóa, gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam; 100% hướng dẫn viên, người sử dụng lao động và người lao động ngành du lịch trên địa bàn tỉnh được bồi dưỡng kiến thức về lịch sử, danh lam thắng cảnh, văn hóa địa phương; 100% học sinh phổ thông các cấp được tiếp cận giáo dục nghệ thuật, giáo dục di sản văn hóa và được tham quan các di tích quốc gia đặc biệt, Bảo tàng tỉnh, Thư viện tỉnh; 100% đơn vị hành chính cấp huyện có di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tổ chức các lớp truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng; số hóa 100% các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa phi vật thể đã được xếp hạng, Bảo tàng tỉnh, Thư viện tỉnh; 100% các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng được quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị; 100% số di tích quốc gia đặc biệt được thường xuyên quản lý, tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp; tỷ trọng doanh thu các ngành công nghiệp văn hóa trong GRDP của tỉnh đến năm 2025 và 2030 cao hơn mức bình quân chung của cả nước; xây dựng thành phố Hạ Long nằm trong Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO, là điểm đến của các sự kiện quốc gia và quốc tế; thành phố của di sản, kỳ quan và văn hóa ẩm thực…