Xu hướng số hóa trong phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở Trung Quốc hiện nay và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
TCCS - Mặc dù Trung Quốc tăng cường đầu tư ngành công nghiệp văn hóa khá muộn so với nhiều nước, nhưng là quốc gia có sự phát triển liên tục dựa trên hệ thống các chính sách đồng bộ, tạo được sức bật mạnh mẽ. Những năm gần đây, với tác động ngày càng sâu rộng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, “số hóa” trở thành xu hướng phát triển chính trong ngành công nghiệp văn hóa tại đất nước tỷ dân này. Kinh nghiệm của Trung Quốc về số hóa ngành công nghiệp văn hóa có giá trị tham khảo tốt đối với việc xây dựng chính sách phát triển hiệu quả ngành công nghiệp văn hóa nước ta trong bối cảnh chuyển đổi số.
Xu hướng số hóa trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Trung Quốc
Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 10-2000), Đề xuất Kế hoạch 5 năm lần thứ X về phát triển kinh tế - xã hội đã được thông qua, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng và quản lý thị trường văn hóa, thúc đẩy ngành công nghiệp văn hóa phát triển(1), đánh dấu sự thừa nhận của Chính phủ Trung Quốc đối với ngành công nghiệp văn hóa, đồng thời tạo cơ sở, nền tảng để ban hành các kế hoạch phát triển các ngành công nghiệp văn hóa về sau. Trải qua hơn 20 năm từ khi được chính thức định danh, ngành công nghiệp văn hóa Trung Quốc phát triển nhanh chóng với quy mô và tỷ lệ đóng góp GDP ngày càng tăng (năm 2022, chiếm khoảng 4,46% GDP cả nước)(2). Thậm chí, tại nhiều thành phố lớn, tỷ lệ đóng góp của ngành này đối với GDP của các địa phương hầu hết đạt trên 5%, thậm chí ở Bắc Kinh đạt 11,3% (năm 2022), Hàng Châu đạt 16% (năm 2023)(3).

Trong bối cảnh mới, ngành công nghiệp văn hóa Trung Quốc có sự chuyển đổi mạnh mẽ với phương thức và hướng đi mới, nổi bật là xu hướng “số hóa”. Bộ Văn hóa Trung Quốc xác định: Số hóa công nghiệp văn hóa là lĩnh vực mới nổi, lấy nội dung văn hóa sáng tạo làm hạt nhân, dùng công nghệ số làm phương thức để tiến hành sáng tác, sản xuất, quảng bá và phục vụ(4). Đây là việc sử dụng công nghệ số kết hợp với các nguồn lực văn hóa hiện có để phát triển sản phẩm, dịch vụ văn hóa dựa trên phương tiện kỹ thuật số, cũng là quá trình biến nội dung văn hóa thành nội dung số; là việc thông qua kỹ thuật số hóa (công nghệ truyền thông mạng, kỹ thuật AI, kỹ thuật bản quyền số, kỹ thuật mã hóa video,…) nhằm đổi mới, tái thiết hệ sinh thái của ngành công nghiệp văn hóa, từ đó tối đa hóa lợi ích kinh tế và xã hội(5).
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tỷ lệ tiêu dùng cho văn hóa, giáo dục và giải trí của người dân Trung Quốc tăng 106% trong vòng 10 năm (giai đoạn 2012 - 2021)(6) và năm sau tiếp tục cao hơn năm trước. Đến năm 2023, bình quân tiêu dùng cho văn hóa, giáo dục giải trí của người dân nước này đạt 2.904 tệ/người, chiếm 10,4% tổng nguồn thu, chi (tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước)(7), lớn thứ tư sau các nhu cầu tiêu dùng về thực phẩm (29,8%), nhà ở (22,7%), giao thông liên lạc (13,6%). Nhu cầu về thị trường ngày càng lớn là động lực phát triển quan trọng đối với các ngành công nghiệp văn hóa của Trung Quốc.
Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng sản phẩm văn hóa trực tuyến của người dân Trung Quốc cũng tăng so với các phương thức tiêu dùng truyền thống, đặc biệt từ sau đại dịch COVID-19. Trong thời gian dịch bệnh, việc Trung Quốc tiếp tục duy trì biện pháp phòng ngừa, kiểm soát nghiêm ngặt, tác động đáng kể đến sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa. Cụ thể, các địa điểm hoạt động văn hóa ngoại tuyến như rạp chiếu phim, triển lãm, bảo tàng,… phải đóng cửa thời gian dài, địa điểm sản xuất phim và truyền hình cũng như du lịch ngoài trời gần như đình trệ. Như vậy, bên cạnh tác động tiêu cực, dịch bệnh cũng đem đến những cơ hội với nhiều loại hình mới xuất hiện ở lĩnh vực văn hóa trực tuyến. Tính đến tháng 12-2020, xét về video trực tuyến, số lượng người dùng đạt khoảng 927 triệu người (người dùng video ngắn chiếm 88,3%); tin tức trực tuyến đạt 743 triệu người; nhạc trực tuyến đạt 658 triệu người; văn học trực tuyến đạt 460 triệu người. Hiệu ứng quy mô rộng lớn do mạng internet mang lại trong thời đại kỹ thuật số vượt xa so với các phương thức truyền thống và tiếp tục gia tăng khi số lượng người dùng các phương tiện truyền thông xã hội không ngừng tăng lên. Tháng 12-2023, Trung Quốc đạt 1,092 tỷ người dùng các phương tiện truyền thông xã hội, mức độ phổ cập mạng internet đạt 77,5%(8), cho thấy tiềm năng của thị trường công nghiệp văn hóa số rất lớn.
Ngoài ra, sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, công nghệ số đã mở ra không gian phát triển mới cho các ngành công nghiệp văn hóa số cùng dịch vụ văn hóa công cộng trực tuyến. Đổi mới công nghệ trở thành động lực mới để phát triển thị trường văn hóa và có sự phù hợp với xu thế phát triển chung của các ngành kinh tế khác ở Trung Quốc. Sáng tạo, đổi mới là định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của nước này, do đó, mức chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) đã tăng lên 52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ Nhân dân tệ (NDT) vào năm 2016(9). Công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin được tận dụng để thay đổi ngành công nghiệp văn hóa truyền thống, đổi mới phương thức sản xuất văn hóa và không ngừng cho ra đời những hình thức hội nhập văn hóa, công nghệ mới; các công ty văn hóa kỹ thuật số cũng tập trung đầu tư mở rộng hình thức tiêu dùng trực tuyến.
Một số nội dung trọng tâm và thành tựu của chủ trương số hóa ngành công nghiệp văn hóa ở Trung Quốc thời gian qua
Hiện nay, ngành công nghiệp văn hóa số là lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh chóng tại Trung Quốc, mức độ bao phủ sản phẩm của lĩnh vực này ngày càng sâu rộng, như trò chơi điện tử, kênh phim ngắn, đọc sách số, âm nhạc số,… Cùng sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng sản phẩm chứa nội dung số ngày càng cao, thị trường ngành công nghiệp văn hóa không ngừng được mở rộng. Kể từ đại dịch COVID-19, nhiều công ty văn hóa Trung Quốc ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong sản xuất, như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, internet vạn vật (Internet of Things - IoT), truyền thông di động thế hệ thứ năm (5G), thực tế ảo (VR),… Theo đó, nhiều thiết chế và doanh nghiệp văn hóa được hình thành, đã và đang tích cực tạo điều kiện thuận lợi ứng dụng kỹ thuật số trong sản xuất sản phẩm văn hóa. Từ năm 2020, Quốc Vụ viện và Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia Trung Quốc đã ban hành nhiều văn bản thúc đẩy các hình thức kinh doanh văn hóa mới, đặc biệt là ngành công nghiệp văn hóa số. Trong đó, xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ chính của phát triển công nghiệp văn hóa số; tập trung vào cải cách cơ cấu bên cung và chất lượng sản phẩm văn hóa số, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp văn hóa đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Điều này được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, thúc đẩy xây dựng nền kinh tế số thông qua việc chuyển đổi các doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp số, hiện đại hóa hệ thống và năng lực quản lý của Chính phủ. Trong quá trình chuyển đổi số, vai trò các doanh nghiệp hết sức quan trọng, do đó, Trung Quốc quan tâm thúc đẩy chuyển đổi các doanh nghiệp truyền thống thành doanh nghiệp số, đào tạo đội ngũ doanh nghiệp dịch vụ số và ứng dụng sáng tạo, phát huy vai trò dẫn dắt của những doanh nghiệp này. Về mặt thể chế, tập trung nâng cao trình độ quản lý số của Chính phủ thông qua việc hiện đại hóa năng lực và hệ thống quản trị, trong đó có sự tham gia của cả Chính phủ và doanh nghiệp nhằm chia sẻ tin tức và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Thứ hai, tăng cường xây dựng nội dung phục vụ số hóa ngành công nghiệp văn hóa bởi nội dung là yếu tố quan trọng để tạo ra đầu vào. Trung Quốc đặt ra mục tiêu tạo ra hàng loạt các IP gốc mang đặc sắc văn hóa Trung Quốc; tăng cường việc nghiên cứu, phát triển và chuyển hóa IP; sử dụng các hình thái ngành, nghề mới như trò chơi điện tử, văn học mạng, âm nhạc trực tuyến, biểu diễn trực tuyến, video trực tuyến, nghệ thuật số,… để thúc đẩy quá trình chuyển đổi mang tính sáng tạo, hàm chứa giá trị văn hóa mang đặc sắc Trung Hoa. Số hóa nội dung văn hóa truyền thống còn có ý nghĩa quan trọng trong đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng và mang tính cá nhân hóa của giới trẻ, từ đó nâng cao sự tự tin, hiểu biết và yêu thích văn hóa dân tộc trong họ.
Thứ ba, tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cứng để thúc đẩy ngành công nghiệp văn hóa số phát triển, như trung tâm số liệu, không gian đám mây, khuyến khích các doanh nghiệp văn hóa số tham gia hợp tác kết cấu hạ tầng số, hoàn thiện số liệu cơ sở, thuật toán mô hình mà lĩnh vực công nghiệp văn hóa cần dùng trong ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Cùng với đó, Trung Quốc đưa ra chủ trương thúc đẩy đổi mới và ứng dụng công nghệ, Bộ Văn hóa và Du lịch Trung Quốc tập hợp nguồn lực của các tổ chức sáng tạo, như phòng thí nghiệm trọng điểm, các doanh nghiệp cốt cán, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu và phát triển nhằm đẩy nhanh nghiên cứu và phát triển ứng dụng công nghệ phổ biến, trọng điểm phục vụ quá trình chuyển đổi số.
Thứ tư, Trung Quốc chủ trương xây dựng, phát triển các hình thức, định dạng mới ngành công nghiệp văn hóa số, cụ thể:
Một là, thúc đẩy số hóa nguồn tài nguyên văn hóa đặc sắc, phong phú. Trung Quốc chủ trương làm cho nguồn tài nguyên văn hóa trở nên sống động thông qua sự trợ giúp của công nghệ kỹ thuật số, từ đó thúc đẩy chuyển đổi sáng tạo và đổi mới phát triển. Mặt khác, tăng cường hỗ trợ các địa điểm văn hóa, giải trí, danh lam thắng cảnh và công viên lân cận để phát triển sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số, đồng thời mở rộng hoạt động sáng tạo, sản xuất; chú trọng nhiệm vụ phổ biến, quảng bá các di tích văn hóa và di sản văn hóa phi vật thể thông qua các phương tiện truyền thông mới, khuyến khích số hóa các tài nguyên văn hóa và mô hình giải trí ngoại tuyến.
Hai là, thúc đẩy sự phát triển kết hợp giữa ngành công nghiệp văn hóa số với các ngành nghề khác, như du lịch, hàng tiêu dùng, nông nghiệp thông minh và các ngành hàng hiện đại như tài chính, logistics, giáo dục, thể thao, thương mại điện tử,... Theo đó, Trung Quốc tăng cường sự phát triển kết hợp giữa các doanh nghiệp văn hóa kỹ thuật số và doanh nghiệp du lịch internet, mở rộng sáng tạo văn hóa trong du lịch; thúc đẩy sự tích hợp giữa văn hóa kỹ thuật số với thương mại điện tử, phát sóng trực tiếp, video ngắn và các nền tảng kinh tế trực tuyến khác và các mô hình sản xuất nội dung trực tuyến mới (ví dụ: Phát sóng trực tiếp về du lịch và quảng bá du lịch).

Ba là, tiếp tục đầu tư, phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn trên nền tảng số. Với định hướng này, Trung Quốc đặt ra mục tiêu đẩy nhanh việc ứng dụng độ phân giải cực cao 5G+4K/8K trong ngành nghệ thuật biểu diễn; xây dựng các rạp chiếu trực tuyến và rạp chiếu kỹ thuật số; dẫn đầu định hướng phát triển và cải cách của ngành nghệ thuật biểu diễn toàn cầu. Đối với chủ trương này, Trung Quốc tập trung thực hiện các nhiệm vụ: 1- Hỗ trợ hoạt động của các tổ chức nghệ thuật biểu diễn trực tuyến, đồng thời tạo ra thương hiệu nổi tiếng về biểu diễn nghệ thuật sân khấu; 2- Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi kỹ thuật số trong quản lý các đoàn văn học, nghệ thuật, cơ quan biểu diễn cũng như địa điểm quản lý biểu diễn; 3- Nuôi dưỡng thói quen thanh toán trực tuyến của khán giả và mở rộng các mô hình tiêu dùng, xây dựng hệ thống thành viên, bán vé trực tuyến.
Bốn là, Trung Quốc đặt ra mục tiêu phát triển thêm nhiều hình thức kinh doanh mới trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa số, đặc biệt là sử dụng ứng dụng thực tế ảo, thực tế tăng cường, máy bay không người lái và công nghệ về ánh sáng,… Từ đó, hỗ trợ các đơn vị, di tích văn hóa, danh lam thắng cảnh, công viên giải trí… phát triển các dự án trải nghiệm, dịch vụ, như phòng triển lãm kỹ thuật số và danh lam thắng cảnh ảo.
Một số kết quả đã đạt được
Số hóa ngành công nghiệp văn hóa đã và đang đóng góp ngày càng lớn vào tổng doanh thu của ngành công nghiệp văn hóa nói riêng cũng như nền kinh tế Trung Quốc nói chung. Theo báo cáo Cục thống kê Trung Quốc, năm 2023, doanh thu của các doanh nghiệp văn hóa có quy mô đạt 12.951,5 tỷ NDT, với tốc độ tăng trưởng đạt 8,2%(10) (khoảng gấp 8 lần so với tốc độ tăng trưởng trong năm 2022 (0,9%))(11). Thành tích này được lý giải là nhờ chủ trương gỡ bỏ chính sách Zero-COVID của Trung Quốc từ đầu năm 2023, tạo điều kiện để các tiêu dùng văn hóa ngoại tuyến được thực hiện trở lại, tạo nên sự bùng nổ doanh thu của các doanh nghiệp văn hóa tại Trung Quốc. Mức độ đóng góp của các lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp văn hóa số ngày càng tăng. Trong doanh thu của các doanh nghiệp văn hóa có quy mô năm 2023, các doanh nghiệp của 16 phân ngành văn hóa mới(12) (chủ yếu sử dụng nền tảng số để khai thác và sản xuất các sản phẩm văn hóa) đạt 5.239,5 tỷ NDT, chiếm 40,4% doanh thu toàn ngành, với tốc độ tăng trưởng lên tới 15,3% (đây là tốc độ tăng trưởng đáng chú ý, vì trong năm 2022, nhóm phân ngành này chỉ đạt mức độ tăng trưởng 5,3%). Điều này cho thấy xu hướng phát triển mạnh mẽ đối với các lĩnh vực sản xuất sản phẩm văn hóa có ứng dụng khoa học - công nghệ.
Cùng với đó, trong các lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp văn hóa số, nội dung video trực tuyến có quy mô người dùng lớn nhất, mức độ sử dụng của cư dân mạng lớn nhất (sở hữu 850 triệu người dùng, tỷ lệ sử dụng của cư dân mạng đạt trên 80%, mức tăng trưởng quy mô người dùng 17,3%). Lĩnh vực video ngắn cũng thu hút lượng người dùng lớn với 773 triệu người dùng (tỷ lệ sử dụng trên 80% và mức tăng trưởng quy mô 19,3%). Một số lĩnh vực khác, như tin tức trực tuyến, âm nhạc trực tuyến, livestream, game onlinne, văn học mạng,... cũng là những khía cạnh tiềm năng trong ngành công nghiệp văn hóa số với số lượng người dùng trên 500 triệu người. Dựa trên những kết quả đã đạt được, một số nghiên cứu đã dự báo về tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp văn hóa số trong thời gian tới, theo đó, giai đoạn 2024 - 2029, mức tăng trưởng bình quân của ngành được dựa báo sẽ đạt 11%; năm 2029, dự kiến doanh thu đạt khoảng 9.746 tỷ NDT(13).
Một số vấn đề đặt ra
Ngành công nghiệp văn hóa số đã và đang trở thành động lực hàng đầu trong sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa Trung Quốc, đồng thời cũng là bộ phận chuyển động nhanh nhạy nhất trong thị trường văn hóa hiện nay. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực văn hóa mới, do đó, hệ thống quản lý của nhà nước liên quan đến khía cạnh này vẫn chưa hoàn thiện. Phần lớn bộ máy quản lý và hệ thống pháp luật liên quan đến văn hóa ở Trung Quốc được xây dựng từ thời kỳ trước, chủ yếu hướng đến các phương thức vận hành truyền thống của thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường văn hóa số đang thách thức vai trò quản lý của nhà nước trong nhiều khâu, như thẩm định nội dung, quy định pháp luật, hệ thống quản trị,... Bên cạnh đó, xu hướng số hóa thị trường văn hóa đặt ra hàng loạt vấn đề liên quan đến việc quản lý, khai thác nội dung sáng tạo văn hóa trên internet. Đối với nguồn tài nguyên văn hóa số hóa từ di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của các bảo tàng và các khu vực dịch vụ văn hóa công, thì việc xây dựng nguyên tắc sử dụng hay đối tượng thụ hưởng kho dữ liệu lớn này cũng là vấn đề chưa được giải quyết ở Trung Quốc; trách nhiệm công hay quy phạm đạo đức đối với các doanh nghiệp văn hóa số chưa được xây dựng. Mặt khác, các quyền đối với dữ liệu lớn của người dùng mà các nền tảng văn hóa số thu thập được như quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền thu lợi cũng đang là vấn đề gây tranh cãi. Quyền bảo mật cá nhân trong quá trình tiêu dùng các sản phẩm văn hóa số được đặt ra; việc triển khai các chính sách công để giúp người tiêu dùng tránh khỏi sự xâm phạm của các thuật toán thu thập dữ liệu ngày càng trở nên cấp thiết đối với bộ máy quản lý ở Trung Quốc.
Một số gợi mở chính sách đối với Việt Nam

Thời gian qua, Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, tư duy về vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đặc biệt, ngày 8-9-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg, về “Phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” xác định ngành công nghiệp văn hóa sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp 7% GDP (năm 2030) và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm; đồng thời, tạo khung chính sách thuận lợi hỗ trợ các ngành công nghiệp văn hóa, tạo sức hút, hấp dẫn thông qua nâng cao chất lượng các sản phẩm. Đại hội XIII của Đảng cũng đề ra nhiệm vụ “triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam”(14); tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh cần “khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh”. Tuy nhiên, tầm nhìn về xu hướng số hóa ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phải được cụ thể, chi tiết và có cách thức triển khai triệt để hơn trong bối cảnh mới. Theo đó, từ sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa số ở Trung Quốc, có thể rút ra một số gợi mở sau:
Thứ nhất, cần nghiêm túc quán triệt, triển khai, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác phát huy giá trị văn hóa, phục vụ công cuộc phát triển đất nước(15); đặc biệt, phải coi trọng hơn nữa xu hướng số hóa của ngành công nghiệp văn hóa trong bối cảnh chuyển đổi số. Mới nhất, Chỉ thị số 30/CT-TTg, ngày 29-8-2024, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam” được ban hành - là chỉ thị liên quan đến ngành công nghiệp văn hóa và lần đầu đề cập tới vấn đề số hóa ngành công nghiệp này. Chỉ thị số 30/CT-TTg cũng xác định nhiệm vụ “thúc đẩy sử dụng các nền tảng số của Việt Nam trong việc tạo ra các sản phẩm công nghiệp văn hóa”(16). Ở đây, sản phẩm công nghiệp văn hóa số được thể hiện thông qua một số loại hình cơ bản, như xuất bản số, phát thanh - truyền hình, trò chơi điện tử trên không gian mạng, là những nhóm ngành quan trọng trong số hóa ngành công nghiệp văn hóa, tạo ra các sản phẩm như văn học mạng, trò chơi điện tử trực tuyến,… Tuy vậy, nội dung Chỉ thị số 30/CT-TTg chưa thể hiện đủ các hình thức số hóa phong phú của ngành công nghiệp văn hóa hiện nay; do đó, cần tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc và có định hướng cụ thể hơn nữa để thúc đẩy thị trường văn hóa số theo kịp xu hướng của thế giới.
Thứ hai, cần tiếp tục tiến hành khảo sát thị trường để có nhận định sâu sắc về thực tiễn số hóa ngành công nghiệp văn hóa hiện nay. Năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người sử dụng internet, chiếm 79,1% dân số Việt Nam với 94,5% người dùng các phương tiện truyền thông xã hội sử dụng điện thoại để truy cập(17). Đặc biệt, số lượng người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, như Facebook, Tiktok, Youtube,… luôn chiếm trên 50%, đây cũng là các nền tảng cho các hoạt động livestream, sản xuất video ngắn, âm nhạc trực tuyến,… có sự phát triển rất nhanh chóng cùng mức độ tiếp cận, lan tỏa mạnh mẽ đến số đông người dùng. Theo đó, thực tiễn ngành công nghiệp văn hóa nội dung số của Việt Nam đang rất sống động, có thể đang đi trước cả chính sách của Nhà nước, nên cần sớm xác lập cách hiểu thống nhất về nội hàm ngành công nghiệp văn hóa số và có chương trình, kế hoạch khảo sát cụ thể, từ đó, đánh giá thực tiễn phát triển hiện nay của nhóm ngành này.
Thứ ba, chú trọng “Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo, sáng tạo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới”(18). Cùng với đó, sự phát triển của công nghệ thông tin và sự thay đổi trong thói quen tiêu dùng văn hóa trực tuyến của người dân hiện nay, ngành công nghiệp văn hóa trên nền tảng số đang có nhiều điều kiện phát triển nhanh chóng, do đó, cần có các kịch bản chính sách để đón đầu sự phát triển. Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Chiến lược mới cho các ngành công nghiệp văn hóa với tầm nhìn đến năm 2045, trong quá trình phát triển của ngành công nghiệp văn hóa số sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề liên quan an ninh văn hóa quốc gia, quản lý thị trường, giám sát nội dung trên internet, quyền sử dụng dữ liệu người tiêu dùng… Do vậy, xác định những mục tiêu và định hướng đối với xu hướng số hóa của ngành công nghiệp văn hóa cần phải được chú trọng và việc chuẩn bị các kịch bản, chính sách liên quan là hết sức cần thiết./.
--------------------
(1) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc: “中共中央关于制定国民经济和社会发展第十个五年计划的建议” (Tạm dịch: Đề xuất về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân và xã hội 5 năm lần thứ mười), ngày 11-10-2000, http://www.gov.cn/gongbao/content/2000/content_60538.htm
(2) Xem: Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc: “年全国文化及相关产业增加值占GDP比重为4,46%” (Tạm dịch: Năm 2022, giá trị gia tăng của ngành văn hóa và các ngành liên quan chiếm 4,46% GDP), ngày 29-12-2023, https://www.stats.gov.cn/sj/zxfb/202312/t20231229_1946065.html#:~:text=文化及相关产业增加值按照收入法核算,年下降0.1个百分点%E3%80%82
(3) Xem: Cục Thống kê thành phố Hàng Châu: “2023年文化产业增加值增长11,3%” (Tạm dịch: Giá trị gia tăng ngành văn hóa năm 2023 tăng trưởng 11,3%), ngày 9-2-2024, https://www.hangzhou.gov.cn/art/2024/2/9/art_1229063407_4239901.html#:~:text=二维码便可,亿元,增长18.0%25%E3%80%82
(4) Xem: Chính phủ nhân dân Trung ương Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: “文化部关于推动数字文化产业创新发展的指导意”(Tạm dịch: Ý kiến hướng dẫn phát triển đổi mới ngành công nghiệp văn hóa số của Bộ Văn hóa), ngày 11-8-2017, https://www.gov.cn/gongbao/content/2017/content_5230291.htm,
(5) Xem: Trương Kính: “文化产业数字化战略的内容与关”(Tạm dịch: Chiến lược số hóa ngành công nghiệp văn hóa: Nội dung và yếu tố then chốt), Trang điện tử Diễn đàn Nhân dân, ngày 22-9-2021, http://www.rmlt.com.cn/2021/0922/625809.shtml
(6) Xem: “统计局:十年间全国居民人均教育文化娱乐支出增长106%” (Tạm dịch: Trong 10 năm, chi tiêu trung bình của cư dân về giáo dục, văn hóa và giải trí tăng 106%), ngày 12-12-2022, https://news.eol.cn/yaowen/202210/t20221012_2249622.shtml
(7) Xem: Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc: “2023年年居民收入和消费支出情” (Tạm dịch: Tình hình thu nhập và chi tiêu tiêu dùng của cư dân năm 2023), ngày 17-1-2024, https://www.stats.gov.cn/sj/zxfb/202401/t20240116_1946622.html
(8) Xem: Chính phủ Nhân dân Trung ương Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: “我国网民规模达10.92亿” (Tạm dịch: Quy mô cư dân mạng Trung Quốc đạt 1,092 tỷ người),ngày 22-3-2024, https://www.gov.cn/yaowen/liebiao/202403/content_6940952.htm
(9) Xem: Nguyễn Xuân Cường: “Trung Quốc: Nhìn lại 40 năm cải cách mở cửa”, Tạp chí Tổ chức nhà nước điện tử, ngày 22-11-2018, https://tcnn.vn/news/detail/41652/Trung-Quoc-Nhin-lai-qua-trinh40-nam-cai-cach-mo-cua.html
(10) Xem: Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc: “2023年全国规模以上文化及相关产业企业营业收入增长8,2%” (Tạm dịch: Doanh thu năm 2023 của các doanh nghiệp ngành văn hóa và các ngành liên quan quy mô lớn tăng trưởng 8,2%),ngày 30-1-2024, https://www.stats.gov.cn/sj/zxfb/202401/t20240129_1946971.html
(11) Xem: Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc: “2022年全国规模以上文化及相关产业企业营业收入增长0,9 %” (Tạm dịch: Doanh thu năm 2022 của các doanh nghiệp ngành văn hóa và các ngành liên quan quy mô lớn tăng trưởng 0,9%),ngày 30-1-2023, https://www.stats.gov.cn/sj/zxfb/202302/t20230203_1901733.html
(12) Một số lĩnh vực thuộc 16 phân ngành công nghiệp văn hóa mới gồm: Điều khiển phát sóng tích hợp phát thanh và truyền hình, dịch vụ tìm kiếm mạng internet, dịch vụ thông tin Internet khác, xuất bản số, ngành nghệ thuật văn hóa mới, dịch vụ nội dung số trò chơi, hoạt hình, dịch vụ game online, nghiên cứu phát triển phần mềm (xuất bản số, hoạt hình, trò chơi điện tử, đa truyền thông), dịch vụ văn hóa viễn thông gia tăng, dịch vụ quảng cáo trực tuyến, không gian văn hóa giải trí trực tuyến, dịch vụ phần mềm văn hóa và bản quyền,...
(13) Xem: Trung tâm báo cáo Trung Quốc: “Phân tích hiện trạng ngành công nghiệp văn hóa số năm 2024: Quy mô ngành công nghiệp văn hóa số vượt 7000 tỷ NDT”, ngày 31-5-2024, https://m.chinabgao.com/info/1250479.html
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 145
(15) Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 28-11-1987, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Kết luận số 76/KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”,…
(16) Chỉ thị số 30/CT-TTg, ngày 29-8-2024, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam”
(17) Xem: Chi Mai: “Nâng cao ý thức, trách nhiệm trong bảo vệ bí mật nhà nước”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 2-6-2023, https://nhandan.vn/nang-cao-y-thuc-trach-nhiem-trong-bao-ve-bi-mat-nha-nuoc-post755696.html
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 264
- Vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân: Thực trạng và một số khuyến nghị
- Quốc hội tiếp tục kế thừa, đổi mới và phát triển hoạt động lập hiến trong giai đoạn hiện nay
- Cơ chế hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam
- Ngoại thương Việt Nam: Vị thế mới sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Ngoại giao đa phương đưa đất nước hội nhập toàn diện và sâu rộng trong thời đại mới
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên