Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa nhằm bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Ninh

TS Kiều Quỳnh Anh – PGS, TS Hồ Việt Hạnh – TS Nguyễn Tuấn Anh
Học viện Khoa học xã hội
09:31, ngày 05-12-2024

Để bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa một cách hiệu quả thì không thể không nhắc đến công nghiệp văn hóa. Bởi công nghiệp văn hóa có vai trò tích cực đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc; giúp quảng bá, lan tỏa hình ảnh đất nước, con người; phát triển du lịch góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện công nghiệp văn hóa là sự nghiệp chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, mỗi chủ thể có phương thức thể hiện vai trò khác nhau trong sự nghiệp chung đó. Chủ thể nắm quyền lực thể hiện vai trò rõ nhất thông qua chính sách phát triển công nghiệp văn hóa của mình. Tại nhiều quốc gia, công nghiệp văn hoá là một phần quan trọng của nền kinh tế, nó đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức về lĩnh vực văn hóa nói chung và công nghiệp văn hóa nói riêng đã có sự đổi mới căn bản trên nhiều phương diện. Đảng thể hiện tư duy lý luận về vai trò của văn hoá, khẳng định sự cần thiết phải xây dựng ngành công nghiệp văn hoá qua nhiều hình thức. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã xác định “Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghiệp tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội phát triển. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá và công nghiệp văn hóa”(1). Còn trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng chỉ rõ: “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”; “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(2) là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Nhận thấy được vai trò quan trọng của phát triển văn hoá, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế muốn quảng bá văn hoá Việt Nam với bạn bè quốc tế thì cần phát triển công nghiệp văn hoá.

Đảng và Nhà nước đã thông qua một số chính sách cụ thể, khuyến khích ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) phát triển xem đây như một trong những phương thức hữu hiệu nhằm phát huy nguồn lực văn hóa. Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam, sau 6 năm (2016 - 2022) thực hiện “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam”(3), ngành công nghiệp văn hóa vẫn chưa có nhiều thành tựu như mong muốn. Để thực hiện Chiến lược này cùng các văn bản khác về công nghiệp văn hóa do Trung ương ban hành, Quảng Ninh đã có nhiều hành động cụ thể để hiện thực hóa tại địa phương. Mặc dù vậy, theo cách nhìn nhận của chúng tôi, phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam nói chung và tại Quảng Ninh nói riêng đã thu được nhiều thành tựu song vẫn còn cách xa với kỳ vọng. Với nhận thức như vậy, bài viết này mong muốn giải đáp một số vấn đề: Một là, làm rõ cách quan niệm về chính sách phát triển CNVH; hai là, luận bàn về chính sách phát triển công nghiệp văn hóa nhằm bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa ở Quảng Ninh; ba là, đưa ra một số gợi ý giải pháp đối với chính sách này tại Quảng Ninh.

Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa nhằm bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hoá góp phần phát triển kinh tế - xã hội

Quan niệm về công nghiệp văn hóa

Thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” (Culture Industry) lần đầu tiên xuất hiện năm 1947 trong cuốn sách “Dialectic of Enlightenment” của hai nhà nghiên cứu người Đức là Adorno và Horkneimer (đây là phiên bản sửa đổi của phiên bản ban đầu các tác giả đã lưu hành giữa bạn bè và đồng nghiệp vào năm 1944 với tiêu đề “Những mảnh vỡ triết học”, tiếng Đức: Philosophische Fragmente). Họ cho rằng, CNVH làm cho văn hóa bác học và văn hóa bình dân gặp gỡ; các sản phẩm văn hóa đã được tính toán kỹ cho nhu cầu của đại chúng, do đó, chúng ít nhiều được sản xuất theo kế hoạch. Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp văn hóa có thể kể đến một số quan niệm sau.

Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Ngọc Hà (2014) viết: “Công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo, sản xuất, tái sản xuất, phổ biến, tiêu dùng các sản phẩm và các dịch vụ văn hóa bằng phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng của xã hội, các hoạt động đó được bảo vệ bởi bản quyền”

Bùi Hoài Sơn (2021) cho rằng: “Các ngành công nghiệp văn hoá là những lĩnh vực sử dụng tài năng sáng tạo, vốn văn hóa kết hợp với công nghệ và kỹ năng kinh doanh để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa”.

Tạ Ngọc Tấn (2021) cho rằng, công nghiệp văn hoá là ngành công nghiệp sáng tạo, sản xuất, tái sản xuất, phổ biến, tiêu dùng sản phẩm văn hóa, chịu ảnh hưởng bởi các quy định của bản quyền và sự tác động của khoa học công nghệ trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay.

Trong một tài liệu của UNESCO, công nghiệp văn hoá được hiểu “là những ngành sản xuất ra những sản phẩm hữu hình hoặc vô hình mang tính nghệ thuật, sáng tạo và có tiềm năng tạo ra thu nhập, của cải thông qua việc khai thác các tài sản văn hóa, sản xuất hàng hóa, dịch vụ dựa trên tri thức (cả truyền thống và đương đại)”; “là những lĩnh vực hoạt động có tổ chức mà mục tiêu chính là nhằm sản xuất và tái sản xuất, xúc tiến, phân phối hoặc thương mại hóa các hàng hóa, dịch vụ và hoạt động có nội dung bắt nguồn từ văn hóa, nghệ thuật và di sản”. Các ngành CNVH bao gồm cả bảo tàng, các địa điểm khảo cổ học, danh lam thắng cảnh, các lễ hội và nghệ thuật biểu diễn, âm nhạc, nghệ thuật thị giác, thủ công nghiệp, sách và xuất bản, thư viện, hội chợ sách, lĩnh vực nghe nhìn, gồm phim và video, truyền hình và phát thanh, internet, trò chơi điện tử, thiết kế và các dịch vụ sáng tạo (thiết kế thời trang, thiết kế đồ họa, nội thất, các dịch vụ kiến trúc, quảng cáo); “Công nghiệp văn hóa là một thuật ngữ chỉ các ngành công nghiệp mà có sự kết hợp giữa sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và văn hóa. Các nội dung này thường được bảo vệ bởi Luật Bản quyền và thể hiện dưới dạng các sản phẩm hay dịch vụ”. Với mong muốn hội nhập với thế giới, đồng thời cũng có nhưng nét tương đồng giữa các quan niệm trên, chúng tôi sử dụng quan điểm của UNESCO trong bài viết này.

Bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa góp phần phát triển kinh tế - xã hội

Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại. Di sản văn hóa Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Tại Điều 1 Luật Di sản văn hóa đã quy định: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(4). Bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hoá là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng và toàn dân ta. Bảo vệ là không để mất đi, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến thái; bên cạnh đó phải biết phát huy những giá trị tinh hoa, tồn tại bền vững với thời gian. Đối tượng bảo tồn di sản văn hóa, tức là các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể thỏa mãn điều kiện: phải được coi là tinh hoa, là một giá trị đích thực được thừa nhận minh bạch; phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài với thời gian trước những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay.

Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, đã ban hành nhiều chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã chỉ rõ nhiệm vụ bảo tồn, phát huy di sản văn hóa trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế: “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam”(5).

Chính sách công và chính sách phát triển công nghiệp văn hóa  

Ở nước ta, cũng có nhiều quan niệm rất khác nhau về chính sách công. Có thể kể ra đây một số định nghĩa đáng chú ý sau:

Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “chính sách là các chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó”(6). Tác giả Nguyễn Hữu Hải quan niệm rằng: “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội”(7).

Tiếp thu các quan niệm trên, chúng tôi cho rằng: Chính sách công là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng. Như vậy, Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa được hiểu là các chính sách do chủ thể nắm quyền lực công ban hành nhằm phát triển các ngành sản xuất ra những sản phẩm hữu hình hoặc vô hình mang tính nghệ thuật, sáng tạo và có tiềm năng tạo ra thu nhập, của cải thông qua việc khai thác các tài sản văn hóa, sản xuất hàng hóa, dịch vụ dựa trên tri thức.

Vai trò của chính sách phát triển công nghiệp văn hóa trong phát huy nguồn lực văn hóa nhằm phát triển kinh tế - xã hội

Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa có vai trò thể hiện ở tất cả các địa bàn mà mà nó hiện diện. Đó là:

Một là, chính sách phát triển CNVH khuyến khích con người sáng tạo và đổi mới. Chính sách phát triển CNVH tạo ra môi trường thuận lợi cho sự sáng tạo và đổi mới các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Nó cung cấp hỗ trợ tài chính, tạo ra cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và xây dựng cơ sở hạ tầng văn hóa, cung cấp điều kiện cần thiết để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa độc đáo và sáng tạo.

Hai là, chính sách phát triển CNVH tạo ra cơ hội kinh doanh và việc làm, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ hội kinh doanh và việc làm trong ngành. Bằng cách thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp văn hóa, nó tạo ra cơ hội kinh doanh mới và tăng cường tạo việc làm cho người lao động trong lĩnh vực này.

Ba là, chính sách phát triển CNVH thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo thu nhập. Ngành CNVH có tiềm năng đáng kể để đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và tạo thu nhập. Chính sách phát triển CNVH định hình chiến lược và các biện pháp hỗ trợ để thúc đẩy tăng trưởng doanh thu trong ngành CNVH và tăng cường xuất khẩu sản phẩm văn hóa. Điều này góp phần tạo ra nguồn thu nhập mới cho quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.

Bốn là, chính sách phát triển CNVH bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa. Chính sách phát triển CNVH giúp bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của một quốc gia. Nó bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền, đảm bảo sự đa dạng và độc đáo của di sản văn hóa và khuyến khích bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Phát triển CNVH là làm giàu vốn văn hóa. Vốn văn hóa là nguồn vốn lớn cho tăng trưởng, đổi mới kinh tế, biến văn hóa trở thành một thành tố quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp xây dựng được nền kinh tế sáng tạo mạnh mẽ, có giá trị kinh tế cao. Vốn văn hóa tuy khó quan sát hơn vốn kinh tế nhưng đôi khi có giá trị vô cùng lớn.

Năm là, chính sách phát triển CNVH đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh địa phương, quốc gia và góp phần tăng cường quan hệ quốc tế. Chính sách phát triển CNVH có khả năng tạo ra sức hấp dẫn văn hóa của địa phương, quốc gia đối với bên ngoài thông qua việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm văn hóa, tăng cường giao lưu văn hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho việc quảng bá văn hóa.

Sáu là, chính sách CNVH còn đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của người dân và phát triển nền văn hóa của mỗi quốc gia; đồng thời nó còn là kênh hữu hiệu để truyền bá các thông điệp văn hóa của mỗi địa phương, quốc gia đến với cộng đồng quốc tế.

Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa nhằm bảo vệ, phát huy giá trị di sản góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Ninh

Có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan quy định cần có một chính sách phát triển công nghiệp văn hóa của một địa phương. Đối với tỉnh Quảng Ninh, nơi có nhiều danh lam thắng cảnh di sản văn hóa được UNESCO công nhận, một trong những tỉnh đã làm tốt công tác bảo vệ, phát triển di sản văn hóa đã được các cấp chính quyền, quan tâm, tạo điều kiện phát triển công nghiệp văn hoá. Đặc biệt, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh, phát triển công nghiệp văn hoá là một trong những ưu tiên hàng đầu.

Thứ nhất, ở cấp Trung ương đã có một hệ thống văn bản bước đầu xác định chính sách phát triển công nghiệp văn hóa. Bên cạnh các nghị quyết của Đảng như Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam còn là các văn bản cụ thể hóa của nhà nước như Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt theo Quyết định 1755/QĐ-TTg, ngày 8-9-2016. Mục tiêu chung của Chiến lược: Phát triển các ngành CNVH Việt Nam bao gồm: Quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ và thiết kế; triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hoá của người dân trong nước và xuất khẩu góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam(8).

Thứ hai, thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 9-3-2018, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đã đạt được những kết quả tích cực và tương đối toàn diện. Thấy ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa và minh chứng cho sự coi trọng văn hóa trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Quảng Ninh xác định “phát triển công nghiệp dịch vụ, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp sáng tạo được tổ chức sản xuất ở trình độ cao” là 1 trong 3 khâu đột phá trong Nghị quyết số 17-NQ/TU, ngày 30-10-2023, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, “Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững”.

Quảng Ninh xác định phát triển công nghiệp văn hoá trên địa bàn tỉnh đưa văn hoá vùng miền, văn hóa biển cùng các giá trị lịch sử, truyền thống đến gần hơn với người dân và khách du lịch; đặc biệt hỗ trợ mạnh cho phát triển, giáo dục thế hệ trẻ. Đặc biệt, Thành phố Hạ Long hiện đang tập trung triển khai xây dựng Đề án thí điểm phát triển kinh tế đêm trên địa bàn thành phố, giai đoạn 2024 - 2025, nhằm mục tiêu nâng tầm du lịch, dịch vụ, góp phần xây dựng công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản trên địa bàn trong tương lai.

Những chính sách đó giúp cho Quảng Ninh trở thành một trong những địa phương phát triển công nghiệp văn hóa hàng đầu của cả nước.

Một số gợi ý cho chính sách phát triển công nghiệp văn hóa nhằm bảo vệ, phát huy di sản văn hóa góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh

Đặc điểm tình hình chung của tỉnh Quảng Ninh

Quảng Ninh là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam, vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, và vừa thuộc vùng Duyên hải Bắc Bộ. Quảng Ninh là tỉnh khai thác than đá chính của Việt Nam, với nhiều danh lam thắng cảnh, vùng đất giàu bản sắc văn hoá với núi đồi, đồng bằng và biển đảo. Kho tàng di sản văn hoá ở Quảng Ninh thật đồ sộ, gồm 630 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trong đó có 08 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 56 di tích cấp quốc gia, 101 di tích cấp tỉnh, 465 di tích kiểm kê. Ngoài những di sản văn hoá vật thể nổi bật, tỉnh còn có 362 di sản văn hóa phi vật thể. Tỉnh Quảng Ninh đã tích cực tuyên truyền, quảng bá, đầu tư về cơ sở hạ tầng để kết nối và phát huy các giá trị di sản văn hoá của Tỉnh nói riêng và của Việt Nam nói chung thành các sản phẩm du lịch văn hoá thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế. Hiện nay Tỉnh có 12/13 địa phương được công nhận khu, điểm du lịch với 01 khu du lịch cấp quốc gia; 05 khu du lịch cấp tỉnh, 91 điểm du lịch. Các lễ hội văn hoá, lịch sử truyền thống, một số sản phẩm và loại hình du lịch mới, hàng loạt chuỗi các sự kiện (biểu diễn xiếc, thời trang, Festival âm nhạc…) được tổ chức hiệu quả tại các địa phương trong tỉnh, thu hút lượng lớn khách du lịch trong nước và quốc tế, đẩy mạnh phát triển du lịch ngày càng chuyên nghiệp và hiện đại.

Từ những đặc điểm tình hình cụ thể của tỉnh Quảng Ninh, cần có những chính sách cụ thể để thực hiện tốt phát triển công nghiệp văn hóa nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hiện nay.

Một số gợi ý về thiết lập chính sách

Thứ nhất, chính sách phát triển CNVH nào cũng nhằm đạt được mục tiêu nào đó. Khi đề ra chính sách phát triển CNVH, chủ thể ban hành chính sách bao giờ cũng xác định mục tiêu cụ thể, đặt ra các chỉ tiêu phát triển, ví dụ như tăng trưởng doanh thu, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đa dạng và chất lượng cao, đẩy mạnh xuất khẩu văn hóa. Chính sách phát triển CNVH khác với các chính sách khác ở chỗ, mục tiêu của chính sách là phát triển CNVH, còn mục tiêu của chính sách khác (như chính sách kinh tế, chính sách quân sự, chính sách dân số, vân vân) không phải là phát triển CNVH.

Thứ hai, chính sách phát triển CNVH nào cũng là một phương thức để phát triển CNVH trong từng lĩnh vực cụ thể. Mỗi phương thức này có các biện pháp cụ thể và các biện pháp hỗ trợ phát triển CNVH. Khi đề ra chính sách phát triển CNVH, người ta bao giờ cũng đề xuất các chiến lược và biện pháp cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của ngành CNVH, kế hoạch đầu tư và hỗ trợ cho các hoạt động sáng tạo, nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực văn hóa; khuyến khích đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ trong sản xuất và phân phối nội dung văn hóa; xây dựng cơ sở hạ tầng văn hóa, bảo vệ và khuyến khích tài năng và sáng tạo trong ngành CNVH. Chính sách hỗ trợ phát triển CNVH bao gồm: chính sách hỗ trợ về tài chính, thuế, chính sách hỗ trợ về văn bản pháp luật, quy định và quyền sở hữu trí tuệ, chính sách hỗ trợ về xây dựng các chương trình đào tạo và nâng cao năng lực cho nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, chính sách hỗ trợ về hợp tác công - tư.

Thứ ba, chính sách phát triển CNVH nào cũng cần được đánh giá và theo dõi. Khi đề ra một chính sách phát triển CNVH nào đó, người ta bao giờ cũng đề xuất các tiêu chí và phương pháp đánh giá hiệu quả của chính sách ấy, cơ chế theo dõi và báo cáo về tiến độ và hiệu quả thực hiện chính sách.

Thứ tư, chính sách phát triển CNVH có thể là chính sách của nhà nước về phát triển CNVH hoặc là chính sách của chủ thể không phải nhà nước về phát triển CNVH. Chính sách của nhà nước về phát triển CNVH bao gồm chính sách của Trung ương về phát triển CNVH và chính sách của địa phương về phát triển CNVH. Chính sách của nhà nước về phát triển CNVH bao gồm cả những quyết định của nhà nước về vấn đề thực hiện hay không thực hiện một dự án nào đó về CNVH. Ví dụ, quyết định của nhà nước phê duyệt dự án xây dựng một bảo tàng văn hóa hoặc dự án trùng tu một di tích văn hóa cũng là một chính sách của nhà nước về phát triển CNVH.

Thứ năm, chính sách phát triển CNVH bắt đầu từ bước xác định vấn đề cần giải quyết để phát triển CNVH. Giai đoạn khởi đầu của mọi chính sách công là xác định vấn đề chính sách. Vấn đề chính sách bắt đầu nảy sinh khi chủ thể ban hành chính sách có cảm nhận về trở ngại, khó khăn, vướng mắc trong xã hội, hoặc có cảm nhận về bất hợp lý, mâu thuẫn, mất cân bằng, mất ổn định về kinh tế - xã hội, cản trở tăng trưởng kinh tế, hoặc có cảm nhận về nhu cầu trong tương lai, tức là có cảm nhận về các vấn đề cần đạt được giải quyết bằng chính sách mới nào đó. Vấn đề chính sách được giải quyết bằng chính sách này hay là chính sách khác. Ví dụ, khi chủ thể có cảm nhận rằng sự phát triển du lịch văn hóa đòi hỏi phải trùng tu một di sản văn hóa nào đó, thì vấn đề chính sách phát triển CNVH đặt ra. Đó là vấn đề nên trùng tu hay không nên trùng tu di sản văn hóa ấy. Có hai cách giải quyết vấn đề này là nên trùng tu và không nên trùng tu. Hai cách giải quyết vấn đề đấy chính là hai chính sách. Khi đưa ra một cách giải quyết một vấn đề để phát triển CNVH, chủ thể hoạch định chính sách bao giờ cũng đưa ra các quy định và hướng dẫn về các hoạt động văn hóa như quy định về bản quyền, giấy phép, quyền sở hữu trí tuệ, quy định liên quan đến việc sản xuất, phân phối và tiếp thị các sản phẩm văn hóa, quy định về hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của nhà nước cho CNVH. Chính sách phát triển CNVH có thể có quy định về hợp tác công - tư, hợp tác giữa các cơ quan chính phủ, tổ chức tư nhân và các doanh nghiệp văn hóa. Hợp tác đó để phát triển các dự án văn hóa có thể liên quan đến việc chia sẻ tài nguyên, trao đổi thông tin, phối hợp về quy định và chính sách, công tác giáo dục và đào tạo, đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát triển CNVH. Chính sách phát triển CNVH có thể có quy định về quảng bá và tiếp thị hiệu quả cho các sản phẩm văn hóa. Điều này có thể bao gồm việc xây dựng chiến lược tiếp thị, thúc đẩy và quảng bá các sản phẩm văn hóa nội địa và quốc tế, tạo ra các chương trình quảng cáo và khuyến mãi, xây dựng hình ảnh thương hiệu mạnh mẽ cho ngành CNVH.

Một số gợi ý cụ thể

Một là, Quảng Ninh có thể xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa theo lộ trình dài hạn với tầm nhìn và tính đặc thù. Kinh nghiệm thành công của các quốc gia trên thế giới cho thấy, một chiến lược phát triển CNVH có tầm nhìn dài hạn và mang tính đặc thù của từng địa phương là cực kỳ quan trọng. Chỉ có trên cơ sở chính sách dài hạn mang tầm chiến lược chúng ta mới có khả năng xây dựng được một ngành công nghiệp văn hóa hùng mạnh.

Hai là, cần có sự vào cuộc của toàn thể hệ thống chính trị, đặc biệt UBND, HĐND các cấp từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã cũng như nhân dân khi thực hiện chính sách phát triển CNVH. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có những thành công rất lớn trong thực hiện phát triển CNVH. Kinh nghiệm thành công đó cho thấy chủ thể nắm quyền lực phải huy động được mọi thành phần trong xã hội cùng làm, cùng phát triển CNVH của đất nước. Việc huy động nhiều nguồn lực quan trọng với lực lượng tinh hoa của đất nước là điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Bởi người dân vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ của ngành công nghiệp văn hóa. Bên cạnh đội ngũ trí thức, các văn nghệ sĩ, Việt Nam còn có đội ngũ nghệ nhân dân gian trong các lĩnh vực khác (âm nhạc, hội họa, làm nghề truyền thống...). Họ là những “báu vật sống” của đất nước trong việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa (như du lịch, thủ công mỹ nghệ, âm nhạc....) Đồng thời, nguồn lực con người còn bao gồm đội ngũ những nhà lãnh đạo, quản lý ở các khu vực trong và ngoài nhà nước, các chủ doanh nghiệp có trình độ và kỹ năng quản lý ngày càng được nâng cao. Đây cũng là nội lực của đất nước trong tiến trình phát triển CNVH. Phát huy nguồn lực đó là điều kiện để tiếp nhận có hiệu quả các ngoại lực. Có phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc thì chúng ta mới giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực, chủ động chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp của dân tộc.

Ba là, Quảng Ninh cần có chính sách hỗ trợ tài chính cụ thể cho phát triển CNVH. Các ngành công nghiệp văn hóa, dù sử dụng chủ yếu là chất xám, song có một số ngành đòi hỏi quy mô lớn, dài hạn thì mới có thể cạnh tranh được với các đơn vị, doanh nghiệp khác. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, vai trò của nguồn lực tài chính càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Khả năng và quy mô, tốc độ huy động nguồn lực tài chính, tính hiệu quả trong sử dụng nguồn lực tài chính là một yếu tố có tính nền tảng bảo đảm cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Nguồn lực tài chính cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gồm nguồn tài chính trong nước (nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước và nguồn tài chính từ các doanh nghiệp, nhân dân) và nước ngoài. Dễ thấy các quốc gia đầu tư hàng tỷ đô la (USD) vào phát triển ngành CNVH để nhận lại được lợi nhuận từ ngành này gấp hàng chục, hàng trăm lần, cho thấy nếu không có nguồn tài chính do nhà nước đầu tư thích đáng thì khó có thể phát triển CNVH theo đúng hướng. Chính vì vậy, Quảng Ninh cần có cơ chế hỗ trợ tài chính rõ ràng, hiệu quả để ngành CNVH có thể phát triển mạnh mẽ trên địa bàn toàn tỉnh. Đặc biệt, trong bối cảnh phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI-Artificial Intelligence), Quảng Ninh cần tạo điều kiện về các nguồn lực cho việc phát triển công nghiệp văn hoá.  Bởi lẽ, hiện nay sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) đang là xu hướng không thể đảo ngược của thế giới khi góp phần thiết thực phục vụ cuộc sống con người. Sự phát triển của khoa học công nghệ, mà đặc biệt là công nghệ AI cho phép ta có thể phục dựng, sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa đặc sắc về vùng đất và con người trong các thời kỳ lịch sử một cách sống động nhất mà mọi người có thể tham quan, thưởng thức thông qua các tác phẩm nghệ thuật và đem lại giá trị kinh tế cao. Việc đầu tư và kêu gọi đầu tư để thiết kế, xây dựng những điểm nhấn văn hóa có đặc sắc và quy mô là hết sức cần thiết bên cạnh những di sản thiên nhiên vốn có của tỉnh;

Bốn là, Quảng Ninh cũng cần đẩy mạnh hơn nữa hợp tác trong nước và quốc tế về phát triển công nghiệp văn hóa, qua đó, trao đổi kinh nghiệm trong việc bảo tồn các nguồn lực, trong việc tạo lập nguồn lực tài chính, phát triển nguồn lực con người, bảo vệ nguồn lực phi vật chất, trong việc tiếp thu kinh nghiệm quản lý, kiến thức khoa học - công nghệ, trong việc xây dựng thương hiệu, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đặt sự nghiệp phát triển công nghiệp văn hóa của tỉnh trong mối quan hệ chặt chẽ với các tỉnh khác trong nước, các quốc gia khác trên thế giới.

Phát triển công nghiệp văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh cần sự vào cuộc của nhân dân trong tỉnh, nhưng tính chủ động tích cực của tỉnh ủy và chính quyền cấp tỉnh thông qua chính sách phát triển công nghiệp văn hóa lại giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Để có một chính sách phát triển công nghiệp văn hóa có chất lượng, chủ thể chính sách cần ý thức sâu sắc về cơ sở khoa học và thực tiễn trong quá trình xây dựng chính sách.  

----------------------

(1) Ban Chấp hành Trung ương (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

(3) Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1755/QĐ-TTg, ngày 8-9-2016, phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

(4) Văn phòng Quốc hội (2013), Luật Di sản văn hóa số 10/VBHN, ngày 23-7-2013.

(5) Ban Chấp hành Trung ương (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

(6) PGS, TS. Nguyễn Hữu Hải, Chính sách công - những vấn đề cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.51.

(7) TS. Lê Như Thanh - TS. Lê Văn Hòa (Đồng chủ biên), Hoạch định và thực thi chính sách công, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016, tr.10.

(8) Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1755/QĐ-TTg, ngày 8-9-2016, về Phê duyệt Chiến lược các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030.